Theo thống kê của Người Đồng Hành, tổng nợ xấu của 26 ngân hàng đã công bố chi tiết báo cáo tài chính ở mức hơn 96.227 tỷ đồng, tăng 4% so với cuối quý I và tăng 9% so với cuối năm trước. Dẫn đầu về con số nợ xấu là BIDV với 21.141 tỷ đồng, gần như không đổi so với cuối 2020, tỷ lệ nợ xấu 1,63%. Hai ngân hàng tiếp theo là VietinBank với gần 14.500 tỷ đồng, cao hơn 52% so với cuối năm trước, VPBank hơn 10.800 tỷ đồng, cũng tăng 9%. Tỷ lệ nợ xấu lượt là 1,34% và 2,47%. Nhóm giữa cách biệt so với nhóm đầu khi nợ xấu chỉ dưới 7.000 tỷ đồng. Trong đó, Vietcombank gần 6.900 tỷ đồng, tăng 31% so với đầu năm nhưng thấp hơn 11% so với quý I. SHB với gần 6.700 tỷ đồng nợ xấu, tăng 20% so với đầu năm. Một số nhà băng khác có nợ xấu dao động vài trăm đến vài nghìn tỷ đồng, tùy quy mô.
Diễn biến nợ xấu cuối mỗi kỳ của ngân hàng. Nguồn: BCTC. Ở chiều ngược lại, số ít nhà băng có nợ xấu giảm, có thể điểm tới là MB với 2.531 tỷ đồng nợ xấu, thấp hơn 22% cuối năm trước. Eximbank và Techcombank lần lượt giảm 16% và 14% xuống 2.318 tỷ và 1.119 tỷ đồng. Xét về tỷ trọng nợ xấu, VPBank là đơn vị có tỷ lệ nợ nhóm 3-5 trên dư nợ cho vay cao nhất hệ thống gần 3,5%. Nguyên nhân do ngân hàng này sở hữu công ty tài chính tiêu dùng có thị phần lớn nhất Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu riêng ngân hàng mẹ VPBank chỉ 1,73%. Hai vị trí tiếp theo thuộc về VietCapital Bank và PGBank với tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 2,81% và 2,67%. Một số ngân hàng khác có chỉ tiêu này quanh 2% là SHB, MSB, Eximbank. Ngược lại, Techcombank hiện nay đang dẫn đầu là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống chỉ 0,36%, theo sau là ACB với 0,68% và Vietcombank 0,74%. Các con số này đều thấp hơn so với cuối quý I. Ngân hàng đẩy mạnh bảo hiểm nợ xấu Không chỉ có tỷ trọng nợ xấu thấp nhất, Techcombank và Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất trong hệ thống ngân hàng. Vietcombank dẫn đầu với tỷ lệ bao phủ nợ xấu gần 352% vào cuối quý II, theo sau là Techcombank 259%. Vị trí thứ ba thuộc về MB với 236% và ACB với 208%. Với mỗi đồng nợ xấu các ngân hàng này dùng đến 2-3 đồng để dự phòng. Theo quy định, ngân hàng có hai loại trích lập, một là dự phòng chung bằng 0,75% tổng dư nợ cho vay và dự phòng cụ thể với phần nợ xấu phát sinh theo từng nhóm nợ. Trong đó, ngân hàng trích lập 100% với nợ có khả năng mất vốn, 50% với nợ nghi ngờ, 20% với nợ dưới tiêu chuẩn, ngoài ra còn trích 5% với nợ cần chú ý. Theo lãnh đạo một ngân hàng tỷ lệ bảo phủ nợ xấu càng cao, trên 100% cho thấy việc xử lý nợ xấu của ngân hàng tốt và duy trì số nợ xấu thấp hơn số dự trữ. Việc để tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao giúp ngân hàng trích đủ dự phòng và có thể “write-off”, xóa nợ xấu lâu khỏi bảng cân đối kế toán, khi đó quỹ dự phòng thấp xuống nhưng nợ xấu cũng thấp hơn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu càng cao thì chất lượng tài sản càng tốt. Nhín chung phần lớn các ngân hàng đều có tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng so với cuối năm trước.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu cuối mỗi kỳ của các ngân hàng. Nguồn: BCTC Chuyên gia tài chính – ngân hàng TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng với nguồn lực trích lập “dày”, nếu có vấn đề phát sinh, ngân hàng đã sẵn nguồn trích lập dự phòng để xử lý, không để nợ xấu tăng đột biến. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý cần nhanh chóng đưa sàn giao dịch nợ xấu đi vào hoạt động để việc xử lý nợ của các ngân hàng được hiệu quả và triệt để hơn. Chứng khoán ACBS từng đề cập sau quá trình trích lập dự phòng và xóa nợ xấu giai đoạn 2015-2020, dư nợ ngoại bảng của các ngân hàng đang ở mức rất lớn. Đơn vị này ước tính tới cuối năm 2020, dư nợ ngoại bảng của Vietcombank vào khoảng 20.000 tỷ đồng, VietinBank khoảng 19.000 tỷ đồng. Đây là các khoản nợ của khách hàng được ngân hàng trích lập hoàn toàn và đưa khỏi bảng cân đối kế toán. Nếu có thể thu hồi, ngân hàng có thể ghi nhận vào khoản thu nhập lãi khác. Bên cạnh các ngân hàng trên, một số đơn vị có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao có thể điểm tới như TPBank, Bac A Bank, BIDV, VietinBank và Sacombank, đều trên 100%. Ngược lại, một số ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp là Viet Capital Bank và PG Bank chỉ 33-47%.
Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng cuối mỗi kỳ. Nguồn: BCTC. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cũng đề cập dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp sau khi bùng phát lần thứ 4 sẽ khiến số lượng các doanh nghiệp gặp khó khăn tăng lên, qua đó ảnh hưởng đến nhu cầu vay cũng như chất lượng dư nợ. Thông tư 03 của NHNN đã cho phép các ngân hàng được trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho những khoản nợ cơ cấu trong 3 năm. Với các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ thấp, áp lực trích lập và xử lý nợ trong tương lai sẽ cao hơn nếu nợ xấu tăng, ảnh hưởng lợi nhuận. ACB là số ít ngân hang đã trích lập toàn bộ nợ tái cơ cấu trong nửa đầu năm thay vì phân bổ trong 3 năm. Bên cạnh đó, Vietcombank, đầu năm nay, lãnh đạo cũng từng chia sẻ ngân hàng sẽ chủ động trích lập dự phòng toàn bộ nợ tái cơ cấu trong năm nay mà không cần giãn 3 năm theo Thông tư 03. Hay gần nhất, VietinBank đã đẩy mạnh trích lập với số dư vượt trên nhiều so với mức quy định cho năm 2021, nhằm gia tăng quỹ dự phòng rủi ro, nâng cao tỷ lệ bao phủ nợ xấu kiểm soát chất lượng tín dụng. Theo NDH
Trong đó, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất ở mức 4,83% với tổng nợ xấu 18.094 tỷ đồng. So với hồi đầu năm, nợ xấu của nhà băng tăng 2.206 tỷ đồng, tương đương tăng 14%. Sau VPBank, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank) nhà băng có tỷ lệ nợ xấu cao thứ hai với với mức lần lượt 4,34%. Kết thúc quý I/2022, mức tổng nợ xấu nội bảng của VietBank là 2.243 tỷ đồng, tăng 22% so với hồi đầu năm. Đứng thứ 3 là Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB) với tỷ lệ nợ xấu 3,73%. Tổng nợ xấu của ngân hàng tăng 21% lên 1.508 tỷ đồng. Top 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất quý I/2022.Dù đứng ở vị trí thứ 4 toàn ngành với mức tỷ lệ nợ xấu 2,51% nhưng tổng nợ xấu của Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank) lại giảm 8% so với hồi đầu năm. Cụ thể, tính đến ngày 31/3/2022, tổng nợ xấu của PGBank là 635 tỷ đồng, giảm 59 tỷ đồng so với mức 694 tỷ đồng hồi đầu năm. Những ngân hàng còn lại góp mặt trong Top 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất tính đến cuối quý I/2022 gồm Ngân hàng TMCP Bản Việt -Viet Capital Bank (2,42%), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam – VIB và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương - Saigon Bank (2,39%), Ngân hàng TMCP An Bình - ABBank (2,32%), Ngân hàng TMCP Phương Đông – OCB (2,17%), Ngân hàng TMCP Kiên Long – Kienlongbank (2,08%). Đáng lo ngại là trong cơ cấu nợ xấu của 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao này, 9/10 ngân hàng ghi nhận nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tăng so với đầu năm. Trong khi đó, nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) hầu hết giảm ở các ngân hàng. Cụ thể, mức nợ nhóm 5 của VietBank tăng 47,6%, NCB tăng 51,2%, VIB tăng 12,7%, OCB tăng 27,9%. Trừ VPBank giảm nhẹ 4,5%, các ngân hàng còn lại đều có mức tăng từ 0,67% đến 5,15%. Tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng trong quý 1/2022.Ở chiều ngược lại, mặc dù nợ xấu của Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam - Techcombank đã tăng 6,5% lên 2.442 tỷ đồng, chủ yếu tăng tại nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng chỉ nhích nhẹ từ mức 0,66% lên 0,67%, mức thấp nhẩt trong số các ngân hàng khảo sát. Ngoài ra, có nhiều ngân hàng kiểm soát tỷ lệ nợ xấu thấp dưới 1% còn có Ngân hàng TMCP Bắc Á - BacABank (0,75%), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - VietcomBank (0,81%), Ngân hàng TMCP Á Châu - ACB (0,83%), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – BIDV (0,97%) và Ngân hàng TMCP Quân Đội – MBBank (0,99%).
Nợ xấu ngân hàng tăng trong quan ngại Ngoài nhóm Big 3 niêm yết có tỷ lệ nợ xấu bao phủ cao nhất hệ thống thì ngược lại nhóm ngân hàng tư nhân gọi 05 tên có tỷ lệ nợ bao phủ thấp nhất hệ thống. Đó là SHB - Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội; VBB - Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín; NAB -Ngân hàng TMCP Nam Á; BVB - Ngân hàng TMCP Bản Việt; PGB - Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex. Nhóm ngân hàng này đang có tỷ nợ bao phủ nợ xấu thấp nhất hệ thống. Tính đến 30/6/2021, nợ xấu của SHB là 6.694 tỷ đồng nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu của nhà băng này mới đạt 58%. Nếu thời điểm 30/6/2021 thì tỷ lệ bao phủ nợ xấu của SHB đạt 61%. Như vậy tỷ lệ này giảm tới 3,2% điểm so với cùng kỳ năm 2021. Ngân hàng thứ hai có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp nhất hệ thống là NAB. Tính đến 30/6/2021 nợ xấu là NAB hiện 1.362 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ lệ bao phủ nợ xấu của nhà băng này mới đạt 70%, giảm 40,3% điểm so với cùng kỳ. Tiếp đó là BVB, nợ xấu tính đến 30/6/2021 là 1.247 tỷ đồng nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 44,7%, thấp hơn 6,71% điểm so với cùng kỳ năm ngoái. Một nhà băng nữa cũng có tỷ lệ nợ bao phủ nợ xấu thấp phải nói tới VBB, nợ xấu tính đến 30/6 là 877 tỷ đồng nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu 53,9% giảm 4,15% điểm so với cùng kỳ năm ngoái. PGB có tổng nợ xấu lên tới 703 tỷ nhưng tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 33% giảm 3,02% điểm so với cùng thời điểm năm 2020. Theo các chuyên gia, tỷ lệ bao phủ nợ xấu được dùng để đánh giá khả năng phòng thủ của ngân hàng trước những rủi ro liên quan đến nợ xấu. Bên cạnh đó, một tỷ lệ cũng cho thấy khả năng ứng phó của ngân hàng liên quan đến nợ xấu, đó là dự phòng rủi ro. Đây là khoản tiền được ngân hàng trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do con nợ không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Theo quy định từ Thông tư 11/2021/TT-NHNN được NHNN ban hành ngày 30/07/2021 quy định về phương pháp trích lập dự phòng rủi ro, số tiền dự phòng chung phải trích bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Có nghĩa là cứ cho vay 1 đồng, ngân hàng phải trích dự phòng chung 0,75 đồng, mặc dù khoản vay vẫn được đánh giá là tốt. Theo đó, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ gồm: Nợ tiêu chuẩn (Nhóm 1): 0%, nợ cần chú ý (Nhóm 2): 5%, nợ dưới chuẩn (Nhóm 3): 20%, nợ nghi ngờ (Nhóm 4): 50%, nợ có khả năng mất vốn (Nhóm 5): 100%. “Ẩn số” lãi vay và nợ xấu sau 30/6/2022 Theo các chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán SSI, năm 2022, rủi ro cho nợ xấu ngân hàng là Thông tư 14 về cơ cấu nợ không được gia hạn. Song ngay cả khi trường hợp này xảy ra, tình hình cũng không đến mức báo động, vì nền kinh tế đang dần phục hồi, khả năng trả nợ của doanh nghiệp cũng được hồi phục. Tuy nhiên rủi ro tín dụng chỉ có thể xảy ra với các ngân hàng yếu kém và các ngân hàng có bộ đệm dự phòng rủi ro mỏng. Nếu các ngân hàng này không trích lập dự phòng rủi ro cao thì một ngân hàng có rất nhiều nợ xấu mà không hạch toán đúng nợ xấu, rủi ro mất vốn là luôn hiện hữu… Ông Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia tài chính ngân hàng khẳng định, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của nhóm Big 4 và một số ngân hàng tư nhân khác như Techcombank, VPBank, MBBank và OCB… đã tăng cao trong năm 2021. Điều này cho thấy tỷ lệ bao phủ nợ xấu càng cao, cho thấy ngân hàng này càng có khả năng sẵn sàng dùng các khoản dự phòng đã trích lập để xóa các món nợ khó thu hồi. Đây được xem là bộ đệm để các ngân hàng ứng phó với các cú sốc khi dich bệnh chưa được kiểm soát. Một phần trong khoản trích lập này có thể được hoàn nhập trở lại khi thu hồi được nợ, và chuyển hoá thành lợi nhuận cho nhà băng… Nói cách khác, tỷ lệ bao phủ nợ xấu càng cao, cho thấy lợi nhuận ngân hàng sẽ không bị ảnh hưởng nếu tất cả nợ xấu trở thành không thu hồi được, vì ngân hàng đã dự phòng trước rồi, cứ lấy “của để dành” đó ra, để cấn trừ vào nợ do đó, sẽ không ảnh hưởng đến lợi nhuận. Còn trường hợp như các nhà băng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp thì ngược lại khi có biến cố xảy ra khoản nợ xấu này sẽ ăn mòn lợi nhuận của các nhà băng.
Đánh giá của bạn: |