Mục tiêu chủ yếu của Mỹ và các nước phương Tây trong cuộc chiến tranh lạnh là gì

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Những nguồn gốc của thuật ngữ
  • 3 Bối cảnh
  • 4 Thế chiến II và thời kỳ hậu chiến (1939–47)
    • 4.1 Quan hệ châu Âu đầu Thế chiến 2 (1939-41)
    • 4.2 Đồng minh chống Phe Trục (1941-45)
    • 4.3 Hậu chiến và những mâu thuẫn ban đầu
    • 4.4 Liên bang Xô Viết và sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản
      • 4.4.1 Albania và Bulgaria
      • 4.4.2 Tiệp Khắc
      • 4.4.3 Hungary và Romania
      • 4.4.4 Tây Đức và Đông Đức
      • 4.4.5 Phần Lan và Nam Tư
    • 4.5 Bức màn Sắt
  • 5 Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh
  • 6 Chiến tranh Lạnh được "hâm nóng"
    • 6.1 Kế hoạch Marshall
    • 6.2 Viện trợ cho Tây Berlin
    • 6.3 Sự hình thành các khối liên hiệp
    • 6.4 Sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản
    • 6.5 Chiến tranh Lạnh và tác động trong lòng nước Mỹ
  • 7 Thập niên 1950
    • 7.1 Mỹ Latinh
    • 7.2 Châu Á
    • 7.3 Việt Nam
    • 7.4 Lào
    • 7.5 Trung Đông
    • 7.6 Sự kiện Hungary năm 1956
    • 7.7 Khủng hoảng kênh đào Suez 1956
  • 8 Thập niên 1960
    • 8.1 Sự kiện vịnh con Lợn và cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba
    • 8.2 Khủng hoảng Berlin năm 1961
    • 8.3 Mùa xuân Praha
    • 8.4 Chia rẽ Trung-Xô
    • 8.5 Mỹ Latinh
    • 8.6 Châu Á
    • 8.7 Châu Phi
  • 9 Cuộc chạy đua công nghệ giữa Mỹ và Liên Xô
    • 9.1 Vũ khí hạt nhân
    • 9.2 Tên lửa liên lục địa
    • 9.3 Công nghệ vũ trụ
  • 10 Thập niên 1970
    • 10.1 Hòa giải Trung-Mỹ
    • 10.2 Giảm căng thẳng
    • 10.3 Mỹ Latinh
    • 10.4 Châu Á
    • 10.5 Châu Phi
  • 11 Từ 1979 đến 1985
    • 11.1 Học thuyết Reagan
    • 11.2 Cuộc tập trận Able Archer năm 1983
    • 11.3 Châu Á
      • 11.3.1 Cách mạng Hồi giáo Iran
      • 11.3.2 Chiến tranh Liên Xô - Afghanistan
      • 11.3.3 Campuchia và Khmer Đỏ
    • 11.4 Mỹ Latinh
      • 11.4.1 Các nhóm phiến quân Contras
      • 11.4.2 Mỹ xâm lược Grenada
  • 12 Chấm dứt Chiến tranh Lạnh (1985–1991)
    • 12.1 Những cuộc cải tổ của Gorbachev
    • 12.2 Sự tan băng trong mối quan hệ
    • 12.3 Sự khủng hoảng của hệ thống Xô viết
    • 12.4 Liên Xô tan rã
  • 13 Di sản
  • 14 Đánh giá
  • 15 Xem thêm
  • 16 Chú thích
  • 17 Tham khảo
  • 18 Đọc thêm
  • 19 Liên kết ngoài

Lịch sử

Những nước tư bản phương Tây được dẫn dắt bởi Hoa Kỳ, một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang với hệ thống chính trị đa đảng, cũng như những quốc gia First-World (chỉ những quốc gia liên kết chung với NATO hoặc chống lại Liên Xô trong Chiến tranh lạnh). Đại đa số các quốc gia First-World là các nước cộng hòa hoặc quân chủ lập hiến cũng với hệ thống chính trị đa đảng và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị thì họ chi phối chặt chẽ một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa kém phát triển và các chế độ độc tài khác, hầu hết trong số đó từng là các thuộc địa cũ của Khối phương Tây[1]. Liên Xô thì tuyên bố mình là một quốc gia theo Chủ nghĩa Marx-Lenin, áp dụng hệ thống chính trị độc đảng được lãnh đạo bởi một cấp lãnh đạo cao nhất là Xô viết tối cao và Bộ chính trị. Các Đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phương khắp Second World (Second World chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc đồng minh của Liên Xô), bao gồm những thành viên của Hiệp ước Warsaw và những quốc gia khác theo Hệ thống XHCN. Điện Kremlin đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản hoặc cánh tả trên khắp thế giới, nhưng họ bị thách thức vị thế này bởi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông theo sau đó là sự chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô vào khoảng những năm 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã giành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành Third World (những quốc gia trung lập) trong Chiến tranh Lạnh.[1]

Ấn Độ, Indonesia và Nam Tư đã đi đầu trong việc thúc đẩy sự trung lập với Phong trào Không liên kết, nhưng các quốc gia này chưa bao giờ có nhiều tầm ảnh hưởng trên thế giới. Liên Xô và Hoa Kỳ chưa từng tham gia trực tiếp vào một cuộc chiến tranh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện có thể xảy ra. Riêng Trung Quốc và Hoa Kỳ đã từng giao chiến với nhau trong một cuộc chiến tranh có thương vong cao tại Triều Tiên (1950-53) mà kết thúc với sự bế tắc cho cả hai bên. Mỗi bên đều có một chiến lược hạt nhân riêng nhằm ngăn cản một cuộc tấn công của phía bên kia, trên cơ sở một cuộc tấn công như vậy sẽ dẫn đến sự hủy diệt hoàn toàn của kẻ tấn công - "Học thuyết về sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo" (MAD). Bên cạnh những phát triển kho vũ khí hạt nhân của cả hai bên, và triển khai của họ về lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh cho vị thế thống trị được thể hiện qua các cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên toàn cầu, chiến tranh tâm lý, chiến dịch tuyên truyền, hoạt động gián điệp, cấm vận, sự ganh đua ở các môn thể thao tại những giải đấu và các chương trình công nghệ như Cuộc chạy đua vào không gian.

Giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh (1947-1953) khi chính quyền Mỹ ban hành ra Học thuyết Truman bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc Thế chiến II (1945). Liên Xô củng cố sự kiểm soát của mình lên những quốc gia của khối Đông Âu, trong khi Hoa kỳ bắt đầu một chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia Đông Âu (ví dụ như ủng hộ phe chống cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp và thành lập liên minh quân sự NATO). Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là cuộc khủng hoảng ngoại giao lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Nội chiến Trung Quốc và sự bùng nổ của Chiến tranh Triều Tiên (1950-53), căng thẳng giữa hai bên đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết) và USA (Hoa Kỳ) đã cạnh tranh giành sự ảnh hưởng của mình tại những quốc gia Mỹ Latinh và những thuộc địa đang giành độc lập ở châu Phi và châu Á. Liên Xô đã dập tắt cuộc bạo động ở Hungari. Sự mở rộng và leo thang đã xảy ra lần lượt nhiều cuộc khủng hoảng ngoại giao lớn như Khủng hoảng Suez năm 1956, Khủng hoảng Berlin 1961 và Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962, suýt nữa gây ra một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Trong thời gian đó, phong trào hòa bình quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở Nhật Bản từ năm 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm lan rộng sang châu Âu và Hoa Kỳ. Phong trào hòa bình, và đặc biệt là phong trào chống lại vũ khí hạt nhân, đạt được tiến triển và được dân chúng ủng hộ nhiều hơn từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm của thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành, biểu tình, và nhiều hoạt động phi nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi phi hạt nhân hóa trên toàn cầu. Theo sau Khủng hoảng tên lửa Cuba, một giai đoạn mới đã bắt đầu đã cho thấy mối quan hệ phức tạp của sự chia rẽ Xô-Trung, trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là Pháp đã rời khỏi NATO (Quay lại vào năm 2009). USSR đã dập tắt thành công phong trào Mùa xuân Prague 1968 của Tiệp Khắc, trong khi Hoa Kỳ đã trải nghiệm sự hỗn loạn khủng khiếp ngay trong nội bộ nước này bởi phong trào dân quyền, chống phân biệt chủng tộc và phản đối Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã bước vào tham chiến sau khi Pháp buộc phải từ bỏ cai trị Việt Nam và Việt Nam bị tạm chia cắt thành 2 vùng tập kết quân sự năm 1954, rồi cuối cùng nó đã kết thúc với thất bại nặng nề của Hoa Kỳ và chế độ bản địa chống cộng ở Nam Việt Nam do Mỹ hậu thuẫn, Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh đạo năm 1976.

Những năm trong thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mối quan hệ quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn lắng dịu (de'tence) bao gồm việc "Đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược" và quan hệ cởi mở của Mỹ với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập niên 1970 với sự bắt đầu của Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc Liên Xô bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của Nam Triều Tiên và những đợt diễn tập quân sự Ablee Archer của NATO, cả hai đều ở năm 1983. Hoa Kỳ đã tăng sức ép kinh tế, ngoại giao, quân sự lên Liên Xô, vào thời điểm Liên Xô đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người biểu tình đã tụ tập ở Công viên Trung tâm, New York để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là giải trừ vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới Mikhail Gorbachev đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa perestroika (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong Đảng Cộng sản Liên Xô trong suốt những năm của thập niên 80) và glasnost (cởi mở, 1985) và kết thúc sự dính líu quân sự của Liên Xô vào Afghanistan năm 1979 rồi sau đó là sự thắng lợi của những người chống cộng Afganistan năm 1992. Sức ép về chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt tại Phần Lan. Trong thời gian đó Gorbachev từ chối sử dụng quân đội Liên Xô để củng cố những chế độ trì trệ thuộc Khối Hiệp ước Warsaw như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng đã lật đổ tất cả những nhà nước thuộc khối XHCN của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị đình chỉ hoạt động sau một kế hoạch đảo chính chống Gorbachev sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Điều này dẫn tới sự tan rã chính thức của Liên Xô vào tháng 12 năm 1991 và sự sụp đổ của những nhà nước thuộc khối XHCN trong những quốc gia khác như Mông Cổ, Campuchia, và Nam Yemen. Vì vậy, Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc duy nhất của thế giới.

Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một sức ảnh hưởng đến tận ngày nay. Nó thường được nói tới trong văn hóa đại chúng (đặc biệt với thành công quốc tế của loạt sách và phim của thương hiệu James Bond) cũng như sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa Liên Xô là Nga, và Hoa Kỳ trong những năm sau 2010 (bao gồm những đồng minh phương Tây) và đặc biệt là sự gia tăng căng thẳng giữa cường quốc mới nổi là Trung Quốc với Mỹ và đồng minh phương Tây, đôi khi được nói đến với tên gọi "Chiến tranh lạnh lần 2" (tên tiếng Anh: Second Cold War).[2]

17/02/1979: Các yếu tố Hoa kiều, Campuchia, Trung-Xô và mục đích của Đặng Tiểu Bình

Nguồn hình ảnh, Frederic Amat

Chụp lại hình ảnh,

Ban lãnh đạo Khmer Đỏ ở Phnom Penh sau khi giành chính quyền. Từ trái sang phải: Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary, Son Sen và Vorn Vet.

Một khía cạnh không kém phần quan trọng của Cuộc chiến Biên giới 1979 là mâu thuẫn chiến lược giữa Moscow và Bắc Kinh thời kỳ cuối của Chiến tranh Lạnh.

Bài "Từ đồng chí thành kẻ thù" của Tiến sĩ Nicholas Khoo, ĐH Liverpool gửi cho BBC News Tiếng Việt tháng 2/2009 lý giải cuộc chiến Việt Nam chống lại TQ trong bối cảnh đó, và đến nay vẫn còn nhiều giá trị lịch sử, mời các bạn đọc lại:

Cuộc chiến Trung - Việt năm 1979 được các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận từ vai trò của những tranh chấp trên bộ và trên biển giữa hai nước; xung đột tại Campuchia; và vai trò của Hoa kiều tại VN trong quan hệ Việt - Trung.

Những người khác thừa nhận tầm quan trọng của những yếu tố này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh xung đột lớn hơn giữa Liên Xô và Trung Quốc (TQ). Phân tích của tôi dựa trên cái nhìn sau để xem lại những sự kiện lớn xảy ra trước cuộc chiến 1979.

Quảng cáo

Quan hệ Việt - Trung sau 1975

Những người cộng sản TQ xem quan hệ với cộng sản Việt Nam (VN) chủ yếu qua lăng kính của mâu thuẫn Xô - Trung gia tăng sau khi quan hệ đồng minh Xô - Trung sụp đổ đầu thập niên 1960.

Từ cái nhìn này, những diễn biến trong 10 năm trước 1975 thật làm họ lo ngại. Trong cuộc chiến Đông Dương lần Hai (1965-75), Liên Xô thay thế TQ, trở thành nhà cung cấp chính về quân sự và kinh tế.

Sau 1975, TQ không rõ về ý định chiến lược của Hà Nội đối với Moscow. Sự triệt thoái của Mỹ khỏi Đông Nam Á sau Hiệp định Paris 1973 giúp gỡ bỏ một đối trọng của Liên Xô trong vùng, và làm phức tạp cố gắng phản kích Liên Xô của Trung Quốc.

Tháng Tám 1975, trong chuyến đi quan trọng nhờ giúp đỡ kinh tế, Phó Thủ tướng và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Lê Thanh Nghị đã thăm Bắc Kinh trước khi sang Moscow. Họ không thể đạt thỏa thuận về gói viện trợ của TQ cho VN.

Sang tháng Chín, VN lại thử tìm viện trợ. Mặc dù lần này có thỏa thuận về gói kinh tế, nhưng TQ không giúp về quân sự. Trong dấu hiệu chứng tỏ họ lo ngại về quan hệ Việt - Xô, một chủ đề quan trọng được thảo luận trong chuyến thăm là về mục tiêu của LX ở Biển Đông. Đáng chú ý, vào cuối chuyến thăm, hai bên không ra tuyên bố chung.

Có vị thế kinh tế tương đối mạnh hơn TQ, Liên Xô hào phóng hơn với VN. Trong chuyến thăm Moscow tháng Mười của Tổng Bí thư Lê Duẩn, Liên Xô đồng ý viện trợ 3 tỉ đôla từ 1976 đến 80.

TQ hẳn cũng để ý lời ngợi ca dạt dào dành cho Liên Xô trong tuyên bố chung cuối chuyến thăm của lãnh đạo VN. Đáng nói, tuyên bố chung ủng hộ chính sách hòa hoãn (detente) của Liên Xô, vốn bị TQ chống đối.

Một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Việt - Xô là Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần Bốn tháng 12/1976. Những nhân vật gắn bó với TQ bị cô lập. Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị từ 1956 và Đại sứ ở TQ từ 1950-57, mất hết chức vụ trong đảng. Ba cựu đại sứ tại TQ cũng mất chức Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng.

Ngày 7/6/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghé Bắc Kinh trước lúc sang Moscow. Khi gặp Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm hôm 10/6, hai bên thẳng thắn bàn nhiều chủ đề, kể cả cáo buộc một số viên chức VN có tuyên bố chống Tàu, bất đồng về biên giới đất liền và biển, và sự ngược đãi người Hoa ở VN. TQ nói họ vẫn sẵn sang cho việc cải thiện quan hệ.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Từ trái sang: Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1963

Hơn ba tuần sau, Lê Thanh Nghị thăm Moscow để ký nhiều thỏa thuận kinh tế. Trên đường về, ông ghé Bắc Kinh nhưng không tìm thêm được gói kinh tế nào.

Ngày 30/07/1977, hai tuần sau khi VN và Lào ký hiệp ước đồng minh, Ngoại trưởng TQ Hoàng Hoa có bài diễn văn nhắc nhiều tới sự nguy hiểm của "chủ nghĩa xét lại Sô Viết", và công khai cảnh cáo VN về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.

Vấn đề Campuchia

Càng lúc Campuchia càng trở thành trường đấu cho xung đột Xô - Trung và Việt - Trung. TQ kiên quyết chính sách bảo đảm sự tồn tại của một 'Kampuchea độc lập', cai trị bởi chính thể Khmer Đỏ thân TQ.

Ai từng trợ giúp Pol Pot và đồng minh?

Nhà báo từng chiến đấu ở Campuchia nói gì?

Nuon Chea qua đời: Nhìn lại liên hệ của Hà Nội với Khmer Đỏ

Giảm Đặng tăng Mao đề cao ý Tập

LX thì bảo trợ cho VN, trong khi VN thì muốn Campuchia và Lào nằm gọn trong vòng ảnh hưởng của mình. Đã thắng Pháp, Mỹ và nay làm đồng minh của Liên Xô, VN sẽ không để ảnh hưởng với Lào và Campuchia bị TQ và Khmer Đỏ đe dọa. Cuối tháng Chín 1977, xung đột nổ ra tại biên giới VN - Campuchia, cùng với nó là sự xấu đi trong quan hệ Việt - Trung. Lê Duẩn thăm Bắc Kinh tháng 11/1977, muốn có thêm viện trợ kinh tế.

Nhưng lấy cớ gặp khó khăn mấy năm qua, TQ cho hay họ không thể cấp viện trợ. VN cũng không làm bữa tiệc đãi chủ nhà như thông lệ. Ngày hôm sau, Tân Hoa xã đăng bài lên án COMECON, khối tương trợ kinh tế Xô Viết mà VN mới nộp đơn gia nhập.

Sau chuyến thăm của Lê Duẩn, TQ bày tỏ sự gắn bó với Campuchia. Ngày 3/12/1977, Phó Thủ tướng TQ Trần Vĩnh Quý dẫn phái đoàn tới Campuchia. Không lâu sau đó, các đợt đánh phá của Khmer Đỏ vào VN khiến VN mở cuộc tấn công lớn.

Đến ngày 18/1/1978, để chứng tỏ cam kết bảo vệ, quả phụ của Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, thăm Phnom Penh.

TQ thấy có bàn tay của Liên Xô đằng sau hành động của VN. Trong lúc xảy ra các va chạm ở biên giới Việt - Cambodia, ngày 19/01/1978, Tân Hoa Xã khẳng định Moscow hy vọng lợi dụng thù địch giữa VN và Campuchia để tăng ảnh hưởng ở Đông Á.

Những diễn biến sau đó trong chính sách của VN với người Hoa làm TQ càng tin Hà Nội theo đuổi chính sách gắn kết với Liên Xô chống TQ.

Tại hội nghị của Đảng tháng Hai 1978, Hà Nội quyết định đánh tư sản mại bản ở miền Nam. Ngày 23/3, Hà Nội loan báo quốc hữu hoa toàn bộ doanh nghiệp tư.

Trong một chiến dịch dùng bạo lực, đến giữa tháng Tư, chính quyền đã thu gom hơn 30.000 doanh nghiệp tư ở miền Nam, mà đa số do người Hoa sở hữu. Nó đã tạo ra cuộc trốn chạy lớn cả ở biên giới Việt - Trung phía bắc và ra đến Biển Đông.

Ngày 30.4, Bắc Kinh chính thức có tuyên bố, bày tỏ lo ngại cho người tị nạn và nói họ đang theo dõi tình hình. Cùng ngày hôm đó, đảo chính ở Afghanistan đã đưa lãnh đạo thân Xô, Nur Mohammed Taraki, lên nắm quyền. Nó được VN thừa nhận ngày 3.5.

Nhìn từ Bắc Kinh, đây là thêm một bước bao vây của Liên Xô. Ngày 26.5, TQ loan báo gửi tàu đến VN để đón về những người Hoa đang trốn chạy. Ngày 7 tháng 6, Đặng Tiểu Bình nói thẳng "VN đang ngả về Liên Xô, kẻ thù của TQ."

Ngày 16/6, TQ loan báo sẽ đóng cửa tòa lãnh sự ở TP. HCM và lãnh sự quán VN ở Quảng Châu, Côn Minh và Nam Ninh.

Tháng Sáu năm đó, VN chính thức gia nhập COMECON. Ngày 3/7, Bắc Kinh dừng mọi viện trợ cho Hà Nội. Hội đàm song phương về người Hoa cũng bế tắc.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Cảnh một con đường ở Lạng Sơn năm 1979. Vấn đề Nạn kiều trở thành tâm điểm ngắn của xung khắc Hà Nội - Bắc Kinh trước cuộc chiến tháng 2/1979

VN quyết tâm chống lại cố gắng hạn chế ảnh hưởng của họ tại Campuchia. Trong một cuộc gặp tại Hà Nội giữa Lê Duẩn và đại sứ Nga, ông Duẩn bày tỏ ý định "giải quyết cho xong vấn đề [Campuchia] trước đầu năm 1979." Hiệp ước Việt - Xô được ký ngày 3/11/1978.

Phản ứng của TQ là chuẩn bị tâm lý cho quốc tế cho một đáp trả mạnh mẽ chống lại trục Hà Nội - Moscow.

TQ tìm cách thắt chặt quan hệ với Nhật và ASEAN. Đặng Tiểu Bình thăm Tokyo tháng Tám 1978, ký hiệp định hữu nghị và hòa bình. Đáng chú ý, nó có đoạn "chống sự độc bá" mà được xem là nhắm vào Liên Xô.

Rồi đến tháng 11, sau khi Thứ trưởng Ngoại giao VN Phan Hiền (tháng Bảy) và Thủ tướng Phạm Văn Đồng (tháng Chín) thăm Đông Nam Á, Đặng Tiểu Bình cũng công du Malaysia, Singapore, Thái Lan.

Sau khi đã mở màn công tác ngoại giao, Trung Quốc bày tỏ thái độ cứng rắn với VN. Bức điện Bắc Kinh gửi Hà Nội ngày 13/12 cảnh báo "sự kiên nhẫn và kiềm chế của TQ có giới hạn".

Ngày 25/12/1978, quân VN bắt đầu đánh Campuchia. TQ phản ứng bằng cách lên kế hoạch cho cuộc chiến biên giới. Trong khi đi thăm Mỹ, Đặng Tiểu Bình thông báo cho chính quyền Carter rằng VN sẽ trả giá.

Theo Cố vấn An ninh của Tổng thống Carter, Zbigniew Brzezinski, Đặng nói với chủ nhà rằng TQ "xem là điều cần thiết khi kìm hãm tham vọng của VN và cho chúng bài học hạn chế thích hợp".

Đúng như lời Đặng, ngay sau khi ông trở về nhà, TQ mở cuộc chiến chống VN trong tháng Hai và Ba 1979.

Các cựu "đồng chí và anh em" (lời của Hồ Chí Minh) nay hóa ra là kẻ thù.

Tác giả Nicholas Khoo lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Columbia, Mỹ với luận án về quan hệ giữa Trung Quốc với Liên Xô và Việt Nam thời Chiến tranh Lạnh. Bài đã đăng lần đầu trên giao diện cũ của BBC Tiếng Việt ngày 25/02/2009.

Xem thêm:

Trung Quốc và ba đại tang năm 1976

Chiến tranh Biên giới 1979: Thương vong hai bên là bao nhiêu?

Số 28 - Thế giới sau chiến tranh lạnh - Một số đặc điểm và xu thế

10:09 28/03/2012

Thế giới sau chiến tranh lạnh - Một số đặc điểm và xu thế

Tác giả: Nguyễn Quốc Hùng

Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay đổi với những nét nổi bật là :

Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm (1), bởi sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là không trải qua chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc.

Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của thế giới theo chiều hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ.

Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng.

Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng tạo nên môi trường cho sự phát triển của các thế lực tôn giáo. Đó là Đạo Hồi, một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, có mặt trong 75 nước với 1 tỷ tín đồ. Đạo Hồi đang hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực chính trị thế giới, nhất là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan - "Nó giống như cơn sóng không lồ không chỉ tung phá biên giới quốc gia và khu vực, làm rung động toàn bộ thế giới Hồi giáo, mà còn trên chừng mực nhất định, ảnh hưởng đến sự thay đổi và phát triển tình hình thế giới. Trong đó, thế lực chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan đặc biệt phát triển và lan rộng nhanh chóng khiến mọi người chú ý" (2). Đó là chưa kể tới một sự cuồng nhiệt của những tôn giáo khác cũng nổi lên sau chiến tranh lạnh như vụ xung đột chủng tộc giữa tín đồ Â'n Độ và Hồi giáo ở Punjab tháng 11-12/1992, sau đó lan rộng ra cả hai nước Â'n Độ và Pakixtan với hàng nghìn người bị thiệt mạng. Hoặc những hoạt động đầy tham vọng và có vai trò ngày càng lớn của Giáo hội Thiên chúa trong khoảng 15 năm qua với "điều mới mẻ hơn và sự gặp gỡ của Giáo hội với những phong trào xã hội có khuynh hướng chống đối chính trị" (3), như ở Ba Lan, Tiệp Khắc và Rumani...

Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa hình thành, nhưng trong gần một thập kỷ qua sau chiến tranh lạnh, có thể thấy những xu thế mới phát triển nổi bật trên thế giới là :

1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm

Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ quốc tế lấy đối đầu chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như hai nước Mỹ - Xô và "một bị thương một bị mất" (4). Trong khi đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế - chính trị là chính lại thu được nhiều tiến bộ, kết quả như các nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, mà chủ yếu là thực lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật.

Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế. Trong thời điểm hiện nay, kinh tế trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc. Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức độ nào đó đã vượt quá tính toán về địa - chính trị.

Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền công nghệ có trình độ cao và đó mới là cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia.

Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc" xuất bản năm 1988, Paul Kennedy nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu nguyên nhân quy luật hưng thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong 500 năm gần đây. Tác giả nhấn mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự phát triển khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, quyết định vị trí quyền lực của đất nước trong cục diện thế giới. Sự phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc gia khác trong một thế giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau.

2. Xu thế hòa dịu trên quy mô thế giới, hòa bình thế giới được củng cố. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song hòa bình ở nhiều khu vực vẫn bị đe dọa, thậm chí có nơi xung đột diễn ra nghiêm trọng và chiều hướng ngày càng rối loạn. Có người còn tỏ ra bi quan cho rằng đây là "thời kỳ hỗn loạn", "thế giới ngày nay bạo loạn bùng nổ, cắt không đứt, dẹp vẫn loạn" (5). Bởi "xiềng xích của cuộc xung đột Đông - Tây đã mất đi, chỉ còn lại những lợi ích dân tộc đấu tranh với nhau" (6).

Sau khi Trật tự hai cực tan rã, hiện tượng đáng chú ý nhất là chủ nghĩa dân tộc nổi lên ở khắp nơi. Khác với phong trào giải phóng dân tộc trong thập niên 60, hiện tượng chủ nghĩa dân tộc "mới" phần lớn mang đặc điểm sự rạn nứt giữa dân tộc và quốc gia ngày càng lớn, thách thức nghiêm trọng tính hợp pháp của chính quyền về nền tảng của chủ quyền nhà nước. Manidôn Tuarenơ cho rằng, đó là cuộc "khủng hoảng dân tộc" - cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp của bản thân nhà nước. Bởi vì từ nay nhà nước phải chứng minh nó có khả năng đáp ứng những yêu cầu xã hội chứ không phải xác định những yêu cầu đó là gì. Những yêu cầu đó ngày nay là về mặt kinh tế và về mặt dân tộc (7).

Trong khi đó, một hiện tượng nổi bật trong nền chính trị của thế giới hiện đại là: ở nhiều nơi một quốc gia có nhiều chủng tộc, dân tộc hoặc bộ tộc; hoặc một chủng tộc, dân tộc lại phân bổ trong nhiều quốc gia (như người Cuốc có ở Irắc, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước Trung A' thuộc Liên Xô trước đây). Chỉ ở một số ít nước có sự đồng nhất về dân tộc (một dân tộc chủ yếu hoặc một tập đoàn chủng tộc chiếm hơn 90% số dân như ở Nhật Bản, Ba Lan...).

Sự phức tạp của vấn đề dân tộc còn do trước đây các nước thực dân phương Tây khi phân chia thuộc địa, khu vực ảnh hưởng không tính đến biên giới tự nhiên cùng tình hình phân bố dân cư các chủng tộc, dân tộc, mà hoạch định biên giới theo sức mạnh và sự thỏa hiệp giữa chúng bằng đường kẻ thẳng tắp. Nhiều nước đã sống trong sự chênh nhau giữa các biên giới dân tộc và biên giới chính trị của họ.

Sự phục hồi và gia tăng hoạt động của các tôn giáo, nhất là gắn kết với các phong trào chính trị - xã hội, phong trào dân tộc càng làm phức tạp thêm tình hình ở nhiều nước. Có tài liệu cho rằng trên 1/3 số nước tồn tại sự bất đồng tôn giáo nghiêm trọng là do sự khác biệt về bộ tộc, chủng tộc và dân tộc. Liên bang Nam Tư cũ có mấy chục dân tộc theo ba tôn giáo khác nhau.

Một xu hướng ngày nay là "làn sóng nguyên tố hóa" - thành lập quốc gia trên cơ sở dân tộc, chủng tộc đơn nhất. Những người theo xu hướng này sẵn sàng dùng mọi biện pháp, kể cả vũ lực tàn bạo, để thành lập cho được nhà nước chủ quyền của dân tộc.

3. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.

Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ lợi ích chiến lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh.

Trước những mâu thuẫn tranh chấp với nhau, các nước lớn đều tìm kiếm các biện pháp với xu hướng thông qua đối thoại, thỏa hiệp và tránh xung đột. Đặc điểm nổi bật trong các quan hệ điều chỉnh giữa các nước lớn là tính hai mặt. Sự khác nhau về ý thức hệ và chạy đua về lợi ích, tranh giành ảnh hưởng quyết định tính hai mặt trong chính sách đối ứng, quyết định sự tồn tại song song giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa mâu thuẫn và hài hòa, tiếp xúc và kiềm chế. Sự khác nhau về nền tảng kinh tế còn có thể dẫn tới sự mất cân bằng mới.

Từ sau chiến tranh lạnh, nhất là những năm gần đây, mối quan hệ giữa năm nước lớn : Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc vừa có điều chỉnh lớn lại vừa nhộn nhịp những chuyến thăm viếng lẫn nhau với những tuyên bố phương châm, nguyên tắc đối ngoại mới.

Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối với Nga là "Tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ Nhật - Trung, ông đưa ra bốn nguyên tắc : "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp tác, hình thành trật tự chung" (9/1997). Về phía Trung Quốc, đầu tháng 11/1997, khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý Bằng lại đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ với nước này là :"Tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề bất đồng; tăng cường đối thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi và cùng có lợi, phát triển sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời đời hữu nghị". Cuối tháng 10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Giang Trạch Dân đã đổi bốn câu trong cuộc gặp cấp cao đầu tiên vào năm 1993 "Tăng thêm tín nhiệm, giảm bớt phiền phức, phát triển hợp tác, không đối đầu" thành "Tăng cường hiểu biết, mở rộng nhận thức chung, phát triển hợp tác, cùng tạo ra tương lai". Giữa hai nước Liên bang Nga và Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp gỡ cao cấp. Trong bản tuyên bố thứ 5, hai nước chủ trương xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, thực hiện chính sách láng giềng hữu nghị. Tổng thống Pháp Jacques Chirac chủ trương xây dựng "Quan hệ đối tác toàn diện" giữa Pháp và Trung Quốc. Ông cũng kiến nghị với châu Âu thiết lập "Quan hệ đối tác đặc biệt với Nga...".

Mối quan hệ giữa các cường quốc và những điều chỉnh của họ rõ ràng có ảnh hưởng to lớn đối với đời sống chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế, một nhân tố hàng đầu trong sự hình thành Trật tự thế giới mới, "và trong một tương lai gần, không một nước nào có thể gia nhập vào "bộ năm" gồm Mỹ, Liên Xô (nay là Nga), Trung Quốc, Nhật Bản và EEC" (8).

4. Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và các tổ chức liên minh quốc tế.

Đó là một xu thế ngày càng phát triển với những nét nổi bật là :

1/ Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới. Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.

Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.

Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn thông, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ thống liên lạc toàn cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được tăng lên hàng triệu lần. Không có hệ thống này thì không thể ra đời những công ty xuyên quốc gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.

2/ Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới còn được nâng cao trong vai trò ngày càng lớn của các Công ty xuyên quốc gia (CTXQG). Năm 1960, 200 CTXQG lớn nhất thế giới chiếm 17% tổng sản phẩm của toàn thế giới, năm 1984, 200 Công ty này chiếm 26%, dự đoán đến năm 2000 các CTXQG sẽ chiếm 50% tổng sản phẩm thế giới. Năm 1985 có 600 CTXQG có số vốn trên 1 tỷ đô la, với tổng doanh số 3000 tỷ đôla, với tổng số công nhân là 50 triệu người. Nếu như các nước chậm phát triển có quan hệ tốt với các CTXQG thì có thể tranh thủ được vốn, kỹ thuật cũng như sự phân công lao động trong nền kinh tế thế giới, có lợi cho việc phát triển kinh tế với tốc độ cao. Xã hội thông tin là một nội dung quan trọng của quốc tế hóa nền kinh tế thế giới.

Các CTXQG thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa trên thế giới, ngược lại quá trình toàn cầu hóa lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các CTXQG và chiến lược kinh doanh của họ, kể cả đưa tới làn sóng sáp nhập chúng để trở thành các CTXQG siêu lớn với bao hệ quả tích cực và tiêu cực. Gần đây, vào những năm cuối cùng của thế kỷ, làn sóng sáp nhập của các CTXQG tăng lên nhanh chóng. Nếu từ năm 1980 đến năm 1989 ước tính tổng giá trị các vụ sáp nhập và mua bán vào khoảng 1.300 tỷ đôla thì riêng năm 1998 đã có tới 7700 vụ sáp nhập với tổng giá trị lên đến 1200 tỷ đôla . Trong đó có những cuộc "hôn nhân" lớn về kinh tế như của hai Công ty dầu mỏ khổng lồ Exxon sáp nhập với Mobil với giá trị 77,3 tỷ đôla, tạo thành công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới. Hoặc Travellers sáp nhập với Citicorp, với trị giá 72,6 tỷ đôla, nhằm tạo ra tập đoàn tài chính khổng lồ cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm... Tập đoàn mới này sẽ có tổng tài sản khoảng 700 tỷ đôla. Hai ngân hàng Mỹ Bank America và Nations Bank sáp nhập với trị giá 61,6 tỷ đôla... "Nhờ cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba với mũi nhọn là công nghệ tin học mà các CTXQG, đa quốc gia được phát triển thành một hệ thống toàn cầu - tạo ra "cốt vật chất" cho xu thế toàn cầu hóa" (9).

3/ Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới. Từ đầu những năm 70, hoạt động về ngân hàng trên thế giới tăng với tốc độ 20% hàng năm, nhanh hơn tốc độ phát triển thương mại thế giới và hơn tốc độ phát triển của tổng sản phẩm thế giới nhiều lần. Gần đây, những trao đổi về tiền tệ tăng lên rất nhiều, gấp 20 lần trao đổi về thương mại. Trao đổi về tài chính và tiền tệ là 350 tỷ đôla mỗi ngày. Năm 1988, 10.000 tỷ đôla đã vượt biên giới quốc gia để đầu tư ở nước ngoài.

Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa.

Với việc xóa bỏ phân công lao động trên sự phân chia thế giới thành những khu vực độc quyền của chủ nghĩa thực dân và sự phân chia thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập, nền kinh tế thế giới được quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Bên cạnh mặt quốc tế hóa, nền kinh tế thế giới còn có quá trình khu vực hóa trên thế giới. Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là Thị trường chung châu Âu hình thành từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập liên minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng tiền chung EURO vào tháng 1/1999. 24 nước công nghiệp phát triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD vào tháng 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do. Trước đó, năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La tinh (SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở Đông Nam A', tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở thành ASEAN - 10 và hình thành một khu vực thương mại tự do (ASEAN-AFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam A' và Â'n Độ, Pakixtan, Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành lập Hội hợp tác khu vực Nam A' (SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam A' thông qua sự hợp tác nhiều bên. Năm 1989, ở châu A' - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc A', Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và châu A' (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu A' cộng thêm Uỷ viên Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn trên thế giới .

Bên cạnh xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới, xu thế mở cửa hợp tác đồng thời cũng có xu hướng bảo hộ mậu dịch.

Cùng với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hiện tượng nổi bật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai là sự ra đời của các tổ chức quốc tế. Hiện nay trên thế giới có hơn 4000 tổ chức quốc tế, trong đó có khoảng 300 tổ chức liên quốc gia. Các tổ chức quốc tế rất đa dạng, chức năng cũng không dừng lại ở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế và khủng hoảng.

Các tổ chức quốc tế quan trọng hàng đầu là Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...

Các tổ chức quốc tế có tiềm năng khó hình dung hết, vai trò của nó được mở rộng ghê gớm. Lực lượng quốc tế tương đối mạnh lên, chủ quyền quốc gia dân tộc tương đối yếu đi có thể là xu thế song hành trong một thời gian dài sắp tới. Đồng thời trong quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế, không ít khó khăn và thách thức đặt ra trước hết đối với các nước đang phát triển. Như trong thương mại thế giới từ sau cuộc khủng hoảng 1973, tỷ trọng ngoại thương của các nước đang phát triển giảm 1/3, giá hàng nông sản và khoáng sản giảm sút, giá hàng công nghiệp tăng lên. Hoặc quá trình toàn cầu hóa đã đưa tới sự phân công lao động có quy mô mới, rộng lớn trên thế giới, nhưng sự phân công lao động giữa các nước giàu và nghèo chưa có sự thay đổi căn bản. Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu nguyên nhiên liệu, còn các nước phát triển tiếp tục xuất khẩu sản phẩm máy móc và phương tiện vận tải. Sự phân công lao động vẫn không có lợi cho các nước đang phát triển. Các công ty xuyên quốc gia siêu lớn củng cố sức mạnh của mình ở các nền kinh tế phát triển và tiếp tục vươn tới các nền kinh tế kém phát triển hơn. Vì vậy, các nước kém phát triển hơn đang được cảnh báo về nguy cơ các CTXQG siêu lớn trở thành những tên thực dân về kinh tế trong thế kỷ XXI. Quá trình tập trung hóa thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đồng thời sẽ có thể làm xói mòn chủ quyền các quốc gia.

* *

*

Bàn cờ quốc tế đang sắp xếp lại với những thay đổi to lớn. Nhưng điều đáng lưu ý, như một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh, trong mỗi xu thế lại thường có sự đối lập, ngược chiều nhau được gọi là "cơ cấu song trùng", hơn nữa lại được xem như một đặc trưng cơ bản trong quan hệ chính trị quốc tế hiện nay.

Tình hình thế giới sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới, ít nhất là trong những thập niên đầu thế kỷ XXI ?

Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch (1923-1998) đã đưa ra những dự báo : "Trong 25 năm tới từ 1996 đến 2020, có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới, và chạy đua kinh tế toàn cầu sẽ thay thế cho chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Tuy vậy vẫn có khả năng xảy ra chiến tranh cục bộ tuy không nhiều và lớn như trong 50 năm qua. Chiến tranh cục bộ xảy ra chủ yếu là do xung đột dân tộc và tôn giáo.

... Các nước lớn đã đi đến chấm dứt chiến tranh lạnh, chấm dứt chạy đua vũ trang, mở ra thời kỳ hòa hoãn, giảm các kho vũ khí, đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua kinh tế. Cuộc đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua toàn cầu về kinh tế sẽ là hình thức đấu tranh chủ yếu trên thế giới với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi rất to lớn hàng năm nền kinh tế thế giới.

... Các dân tộc chậm phát triển trên thế giới sẽ đứng trước những thời cơ rất lớn cũng như những thách thức rất lớn... Hoặc các nước này có thể bỏ qua giai đoạn công nghiệp hóa để đi thẳng vào thời đại thông tin và đưa nền kinh tế phát triển rất nhanh chóng trong 20 năm. Hoặc các nước này lỡ cơ hội và sẽ bị tụt hậu rất xa" (10)

Nước ta cũng nằm trong tình hình ấy.

Tài liệu tham khảo:

(1). Lý Thực Cốc - Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1996.

(2) Lý Thực Cốc - Sách đã dẫn - Tr.34.

(3) Maridôn Tuarene - Sự đảo lộn của thế giới - địa -chính trị thế kỷ XXI - NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1996 - Tr. 137-138.

(4) Lý Thực Cốc - Sách đã dẫn - Tr.30.

(5) Lý Thực Cốc - sách đã dẫn - Tr.25.

(6) Maridôn Tuarenơ - sách đã dẫn - Tr.57, 72.

(7) Paul Kennedy - Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc. NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992.

(8) Tuần báo Quốc tế, 18/1/1999.

(9) Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 5, 12/1998 - Tr.17

(10) Nguyễn Cơ Thạch- Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25 năm tới (1996-2020). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, Tr.104-107.

Tweet

Căng thẳng chưa có lối thoát của khủng hoảng Ukraine đang đặt ra câu hỏi liệu Bắc Cực có nổi lên là cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Nga?

  • Băng ở Bắc Cực ngày càng mỏng hơn do Trái Đất ấm lên

  • Trung Quốc hướng tới xây dựng 'Con đường Tơ lụa Bắc Cực'

  • Mỹ bổ nhiệm Điều phối viên đặc trách Bắc Cực

Ngày càng có nhiều nước quan tâm tới lợi ích chiến lược tại Bắc Cực. Ảnh: MD

Có thể xem kỷ nguyên đương đại là giai đoạn mà ở đó cạnh tranh giữa các cường quốc không lấn lướt yếu tố cùng tồn tại, hợp tác mà ở đó ổn định là quy tắc chi phối phổ quát. Khủng hoảng Ukraine khởi nguồn từ năm 2014 đến nay vẫn chưa có dấu hiệu lắng dịu, khi xuất hiện leo thang đối đầu giữa Nga và phương Tây.

Tình hình Ukraine nổi lên là một trở ngại chính cho quan hệ hòa bình giữa các cường quốc, đồng thời đặt ra câu hỏi liệu xu hướng va chạm, đối đầu có tạo ra một cuộc “Chiến tranh Lạnh" mới ở Bắc Cực. Mấu chốt của vấn đề nằm ở việc Bắc Cực đều tiếp giáp gần với lãnh thổ của Nga và Mỹ. Căng thẳng cũng nóng lên bởi các hệ thống vũ khí mà hai bên triển khai từ Bắc Cực, khi nơi đây đây là cứ điểm tốt nhất để mỗi bên mở các đòn tấn công nhằm vào đối phương.

Với tầm quan trọng chiến lược như nêu ở trên, Bắc Cực đang là điểm thảo luận trung tâm trong quan hệ quốc tế. Tình hình còn phức tạp thêm khi Bắc Kinh gần đây cũng tuyên bố Trung Quốc là “quốc gia Cận Cực”. Washington coi đây là thách thức đối với vị thế bá chủ toàn cầu của Mỹ và cuộc cạnh tranh tại Bắc Cực từ thế hai cực chuyển sang thế kiềng ba chân.

Biến đổi khí hậu là một tác nhân khiến quan hệ Nga-Mỹ thêm xấu đi. Tình trạng băng tan nhanh ở Bắc Cực do hiệu ứng trái đất nóng lên mở ra tiềm năng khai thác tài nguyên thiên nhiên ở vùng đất này. Bắc Cực là nơi duy nhất Nga đặt đơn vị răn đe nhân, với tầm hoạt động của máy bay ném bom tầm xa cùng lực lượng tàu ngầm.

Nga cũng đang lên kế hoạch triển khai thêm lực lượng tới Bắc Cực để hỗ trợ, bảo vệ các cơ sở đã thiết lập từ lâu. Điều này thôi thúc Mỹ phát triển mẫu máy bay ném bom chiến lược tầm xa có thể tiếp cận dễ dàng Bắc Cực, nhằm vào các mục tiêu có từ thời Liên Xô. Hơn thế, cả Mỹ và Nga cũng tăng cường triển khai các hệ thống giám sát để cảnh báo sớm về một đòn tấn công từ đối phương.

Đây chính là viễn cảnh trước khi Chiến tranh Lạnh xuất hiện. Giờ đây, biến đổi khí hậu nổi lên là sân khấu trung tâm. Bắc Cực đang thu hút sự chú ý đặc biệt của các chiến lược gia toàn cầu. Biến đổi khí hậu đã mở ra các tuyến đường hàng hải mới, khi việc di chuyển qua Bắc Cực dễ dàng hơn trước, cùng với đó là cơ hội tiếp cận, khai thác nguồn tài nguyên dưới biển. Câu hỏi đặt ra là liệu cuộc chay đua ở Bắc Cực có dẫn tới một cuộc Chiến tranh Lạnh mới giữa Nga và Mỹ?

Binh sĩ và xe quân sự Nga được triển khai tại Bắc cực. Ảnh: Scanpix

Năng lượng và tài nguyên: Chưa có dữ liệu chính xác về nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên ở Bắc Cực. Mỹ ước tính kiểm soát khoảng 13% trữ lượng dầu mỏ cùng nhiều mỏ khí đốt lớn chưa được chưa được khai phá của thế giới nằm ở các vùng biển băng giá. Ngoài dầu mỏ, khí đốt, Bắc Cực cũng có nhiều tài nguyên quý như quặng nickel, vàng, đất hiếm, quặng tungsten (wolfram). Theo các tài liệu chính thức đã được công bố, Bắc Cực chiếm khoảng 30% trữ lượng khí đốt và đất hiếm trên toàn thế giới, với giá trị lên đến hơn 1.000 tỉ USD.

Logistic: Trong kỉ nguyên hiện đại, thông tin và ngành logistic thậm chí còn quan trọng hơn cả tài nguyên thô. Hiện có hai tuyến đường biển xuyên đại dương chạy qua Bắc Cực, đó là tuyến đường biển Phương Bắc (NSR) và Hành lang Tây-Bắc (NWP) - hai tuyến hàng hải kết nối, thông thương giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

Các chuyên gia dự báo với tốc độ băng tan như hiện nay, đến cuối thế kỷ này Bắc Cực sẽ gần như không còn băng. Điều này đồng nghĩa với việc tàu chở hàng có thể hoạt động trên tuyến NSR và NWP quanh năm mà không bị gián đoạn. Sau sự cố tàu Ever Given bị mắc kẹt trên kênh đào Suez (3/2021), giới chức Nga nhiều lần lên tiếng quảng bá cho tuyến NSR, coi đây là hành lang vận tải giữa Châu Á và châu Âu thay thế cho kênh Suez. Phía Nga cho rằng NSR giúp rút ngắn hơn 40% quãng đường, thời gian di chuyển nhanh hơn 7 ngày so với hành trình qua kênh đào Suez.

Tám nước thành viên thuộc Hội đồng Bắc Cực đều có phần lãnh thổ ở vùng cực bắc địa cầu. Nhưng chỉ có 6 nước trong số này được hưởng quy chế duyên hải Bắc Cực, đó là Mỹ, Nga, Canada, Na Uy, Đan Mạch và Iceland. Hai nước khác có lãnh thổ ở vùng cực này, nhưng không có duyên hải Bắc Cực, đó là trường hợp của Thụy Điển và Phần Lan.

Gần đây, nhiều nước nằm xa Bắc Cực như Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… cũng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến vùng đất băng giá này. Trung Quốc và Hàn Quốc đi đầu trong triển khai các trương trình nghiên cứu khoa học về Bắc Cực, tham gia vào dự án khai thác khí hóa lỏng của Nga ở vùng cực này. Nhiều công ty vận tải biển châu Á lên kế hoạch sử dụng tuyến đường biển NSR.

Tất cả những điều đó đều cho thấy một thực tế: Bắc Cực đang có được sự chú ý lớn từ rất nhiều nước, có thể là vì nguồn lợi dầu mỏ, khí đốt, tài nguyên thiên nhiên hoặc các tuyến đường biển kết nối liên châu lục.

Hoài Thanh/Báo Tin tức (Theo Moderndiplomacy)

Hải quân Nga diễn tập ở vùng biển Bắc Cực

Ngày 26/1, Hạm đội phương Bắc của Hải quân Nga thông báo các tàu chiến nước này đã tiến vào vùng Biển Barents để diễn tập bảo vệ một tuyến vận tải biển lớn. Động thái trên nằm trong hoạt động diễn tập quân sự liên quan đến tất cả các hạm đội của Hải quân Nga đã được Moskva thông báo trước.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Chiến tranh Lạnh mới,
  • Bắc Cực,
  • tầm quan trọng địa chiến lược,
  • cạnh tranh nước lớn,
  • chiến trường,
  • tài nguyên thiên nhiên,
  • tuyến giao thương huyết mạch,

Video liên quan

Chủ đề