Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Show
Kinh tế Ấn Độ là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới đang phát triển, lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), thứ 7 trên thế giới nếu tính theo tỷ giá hối đoái với USD (Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 1 nghìn tỷ USD năm 2007).[27] Ấn Độ là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, với tốc độ tăng trưởng GDP tới 9,4% trong năm tài chính 2006–2007.[28] Tuy nhiên, dân số khổng lồ đã làm cho GDP bình quân đầu người chỉ đạt mức 4.031 USD tính theo sức mua tương đương, hay 885 USD tính theo GDP danh nghĩa (ước năm 2007).[29] Ngân hàng Thế giới hiện xếp Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế có thu nhập thấp.[30] Nền kinh tế Ấn Độ đa dạng và bao gồm các ngành và lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp, dệt, chế tạo và nhiều ngành dịch vụ. Dù 2/3 lực lượng lao động Ấn Độ vẫn trực tiếp hay gián tiếp sống bằng nghề nông nhưng dịch vụ là một lĩnh vực đang tăng trưởng và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ. Sự tiến tới một thời đại kỹ thuật số và một số lượng lớn dân số trẻ và có học, thông thạo tiếng Anh đang dần chuyển Ấn Độ thành một điểm đến quan trọng của các dịch vụ điều hành kinh doanh (back office) của các công ty toàn cầu khi họ tiến hành outsourcing (đưa một phần hoặc toàn bộ công việc sang cho các nước khác thực hiện) các dịch vụ khách hàng và hỗ trợ kỹ thuật của họ. Ấn Độ là một nước xuất khẩu chính nhân công tay nghề cao trong lĩnh vực phần mềm và các dịch vụ tài chính và công nghệ phần mềm. Các lĩnh vực khác như chế tạo, dược phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ nano, viễn thông, đóng tàu và hàng không đang thể hiện tiềm năng mạnh và đang đạt mức tăng trưởng ngày càng cao hơn. Ấn Độ đã từng áp dụng một phương pháp kinh tế xã hội chủ nghĩa trong gần suốt lịch sử độc lập của mình. Chính phủ đã kiểm soát chặt chẽ sự tham gia của khu vực tư nhân, ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1990, Ấn Độ đã dần mở cửa thị trường của mình thông qua các cuộc cải cách kinh tế theo hướng giảm kiểm soát của chính phủ đối với thương mại và đầu tư. Việc tư nhân hóa các ngành thuộc sở hữu công và việc mở cửa một số ngành nhất định cho nước ngoài và tư nhân tham gia diễn ra chậm chạp và gắn liền với những tranh cãi chính trị. Ấn Độ đối mặt với một dân số tăng nhanh và đòi hỏi giảm bất bình đẳng kinh tế xã hội. Nghèo vẫn là một vấn đề nghiêm trọng dù nghèo đã giảm đáng kể kể từ khi quốc gia này giành được độc lập, chủ yếu là nhờ cuộc cách mạng xanh và các công cuộc cải tổ kinh tế. Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Lịch sử kinh tế Ấn Độ có thể đại khái chia ra thành 3 kỷ nguyên, bắt đầu bằng thời kỳ tiền thuộc địa kéo dài đến thế kỷ 17. Thời kỳ thuộc địa của Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ 17, kết thúc bằng mốc Ấn Độ giành được độc lập từ Anh quốc năm 1947. Thời kỳ thứ 3 kéo dài từ năm 1947 cho đến nay. Thời kỳ tiền thuộc địa[sửa | sửa mã nguồn]Các công dân của nền văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một khu vực định cư đô thị vượt trội và lâu dài đã phát triển thịnh vượng giữa năm 2800 trước Công nguyên và năm 1800 Công nguyên, sống bằng nghề canh nông, thuần hóa động vật, sử dụng cân và đơn vị đo lường thống nhất, chế tạo công cụ và vũ khí và trao đổi mậu dịch với các thành phố khác. Bằng chứng của các dãy phố quy hoạch hoàn chỉnh, hệ thống cấp thoát nước đã cho thấy kiến thức của họ trong việc quy hoạch đô thị, bao gồm các hệ thống vệ sinh đô thị đầu tiên của thế giới và sự hiện diện của một hình thức chính quyền đô thị.[31] Đồng tiền xu bằng bạc trong thời kỳ trị vì của vua Gupta Kumara Gupta I (414–55 AD)Cuộc điều tra dân số năm 1872 cho thấy 99,3% dân số tạo thành nước Ấn Độ ngày nay đã sống trong các ngôi làng,[32] những người có kinh tế phần lớn là cô lập và tự cung tự cấp với nghề nông là chủ yếu. Điều này đã làm thỏa mãn yêu cầu lương thực thực phẩm và cung cấp vật liệu thô cho các ngành lao động tay chân như dệt, chế biến thực phẩm và ngành thủ công. Dù nhiều vương quốc và các triều vua phát hành tiền xu, nhưng việc trao đổi ngang giá vẫn thịnh hành. Các làng trả sưu thuế cho các cấp quan quyền bằng sản phẩm nông nghiệp còn những người thợ thủ công nhận được lương thực cho ngày công của mình vào mùa thu hoạch.[33] Sự sắp đặt lại, đặc biệt là Hindu giáo, các chế độ đẳng cấp và gia đình tứ đại đồng đường đã đóng một vai trò ảnh hưởng trong việc định hình các hoạt động kinh tế.[34] Chế độ đẳng cấp thực hiện chức năng rất giống với phường hội châu Âu, đảm bảo sự phân chia lao động, cung cấp việc đào tạo huấn luyện những người học việc, cho phép những người người sản xuất đạt được một sự chuyên môn hóa hẹp. Ví dụ như trong một số khu vực nhất định, việc sản xuất một loại vải trong nhiều thứ vải khác nhau là đặc sản của một đẳng cấp phụ nhất định. ước tính thu nhập đầu người của Ấn Độ (1857–1900) theo giá năm 1948–49.[35]Sự du nhập của người nước ngoài và sự suy yếu trong lễ nghi truyền thông làm tầng lớp Hindu mất đi đặc quyền xã hội, do đó, ngoại thương Ấn Độ phần lớn nằm trong tay người nước ngoài và người Hồi giáo.[36] Các mặt hàng dệt như vải muxơlin, vải in hoa, khăn choàng, và các sản phẩm nông nghiệp như tiêu, quế, thuốc phiện và cây chàm đã được xuất khẩu sang châu Âu và Trung Đông và Đông Nam Phi để đổi lấy vàng và bạc.[37] Việc đánh giá nền kinh tế thời kỳ tiền thuộc địa của Ấn Độ chủ yếu là định tính do thiếu thông tin mang tính định lượng. Một ước tính cho thấy thu nhập của Đế quốc Môgôn của Akbar Đại đế năm 1600 với mức 17,5 triệu £, tương phản với tổng thu nhập của Anh năm 1800, với tổng số 16 triệu £.[38] Trước khi người Anh đến xâm lược, Ấn Độ là một nền kinh tế phần lớn là nông nghiệp truyền thống với một bộ phận chủ yếu sống phụ thuộc vào công nghệ nguyên thủy. Ngành nông nghiệp đã tồnt ại cùng với một hệ thống thương mại, chế tạo và tín dụng phát triển một cách cạnh. Sau khi Môgôn sụp đổ và sự nổi lên của Đế quốc Maratha, nền kinh tế Ấn Độ đã rơi vào thời kỳ bất ổn chính trị do các cuộc chiến tranh can thiệp và các cuộc xung đột.[39] Thời kỳ thuộc địa[sửa | sửa mã nguồn]Sự cai trị thực dân đã mang đến một thay đổi lớn trong môi trường thuế má từ thuế thu nhập sang thuế tài sản đã dẫn đến một sự bần cùng hóa hàng loạt và cảnh cơ cực của đại đa số nông dân. Nó cũng tạo ra một hoàn cảnh chế độ mà trên giấy tờ là đảm bảo quyền sở hữu giữa những người thực dân, khuyến khích tự do thương mại và tạo ra một đơn vị tiền tệ thống nhất với tỷ giá hối đoái cố định, hệ thống cân đong đo đếm tiêu chuẩn hóa, các thị trường vốn, cũng như hệ thống đường sắt và điện báo phát triển, một dịch vụ dân sự với mục tiêu độc lập khỏi sự can thiệp chính trị và một hệ thống thông luật, hệ thống pháp lý adversarial.[40] Sự thực dân hóa của Anh đối với Ấn Độ trùng hợp với các thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới – công cuộc công nghiệp hóa và một sự tăng trưởng đáng kể trong sản xuất và thương mại. Tuy nhiên, cuối thời kỳ cai trị thực dân, Ấn Độ đã thừa hưởng một nền kinh tế thuộc loại một trong những nước nghèo nhất thế giới đang phát triển,[41] với sự phát triển công nghiệp trì trệ, ngành nông nghiệp không thể nuôi dân số đang tăng trưởng, có tuổi thọ và tỷ lệ biết chữ thuộc loại thấp nhất thế giới. Một ước tính của nhà lịch sử Angus Maddison thuộc Đại học Cambridge cho thấy rằng tỷ lệ thu nhập của Ấn Độ trong tổng thu nhập của thế giới giảm từ mức 22,6% năm 1700 xuống còn 3,8% năm 1952.[42] Trong khi các nhà lãnh đạo Ấn Độ trong quá trình đấu tranh giành độc lập và những nhà nhà lịch sử kinh tế dân tộc chủ nghĩa cánh tả đã đổ lỗi chế độ thực dân cho tình trạng ảm đạm của nền kinh tế Ấn Độ do hậu quả của chế độ thực dân, một quan điểm kinh tế vĩ mô khái quát hơn về Ấn Độ trong thời kỳ này cho thấy có các lĩnh vực tăng trưởng và giảm sút, dẫn đến sự thay đổi mang lại bởi chế độ thực dân và bởi một thế giới đang đi về hướng công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế.[43][44] Thời kỳ sau khi độc lập[sửa | sửa mã nguồn]Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người theo giá cố định của Ấn Độ (1950–2006). Nguồn số liệu: Penn World tables.Chính sách kinh tế của Ấn Độ từ khi độc lập chịu ảnh hưởng của kinh nghiệm thời kỳ thực dân (bị các nhà lãnh đạo Ấn Độ coi là có tính bóc lột) và chịu ảnh hưởng của phương hướng các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa xã hội Fabia. Chính sách có thiên hướng theo chủ nghĩa bảo hộ, nhấn mạnh thay thế nhập khẩu, công nghiệp hóa, sự can thiệp của nhà nước vào các thị trường lao động và tài chính, khu vực công lớn, cơ chế điều tiết hoạt động kinh doanh và kế hoạch hóa tập trung.[45] Jawaharlal Nehru, thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, cùng với nhà thống kê Prasanta Chandra Mahalanobis, và tiếp theo là Indira Gandhi đã thiết kế và giám sát chính sách kinh tế. Họ hy vọng thu được kết quả thuận lợi từ chiến lược này vì nó kết hợp cả khu vực tư nhân lẫn công cộng và vì chiến lược này dựa trên sự can thiệp trực tiếp và gián tiếp của nhà nước hơn là hệ thống chỉ huy tập trung cực đoan kiểu Liên Xô.[46] Chính sách đồng thời tập trung vào cả ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn và công nghệ và trợ cấp cho ngành dệt bông thâm dụng lao động kỹ năng thấp và thủ công đã bị nhà kinh tế Milton Friedman chỉ trích. Ông này cho rằng điều đó gây lãng phí vốn và lao động và làm chậm trễ sự phát triển của các nhà chế tạo nhỏ.[47] GDP (PPP) bình quân đầu người của các nền kinh tế Nam Á và Hàn Quốc, tính bằng tỷ lệ so với GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ[45][48]Do tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 1947–80 thấp so với tốc độ tăng trưởng của các nước Nam Á khác, đặc biệt là "Các con hổ Đông Á", nên người ta đã dùng cụm từ "tỷ lệ tăng trưởng Hindu" để bêu giếu Ấn Độ.[40] Sau năm 1980, có hai pha cải cách kinh tế tạo ra sự tăng tốc tăng trưởng kinh tế cho Ấn Độ. Các biện pháp ủng hộ kinh doanh năm 1980, do Rajiv Gandhi khởi xướng, đã xóa bỏ các hạn chế mở rộng công suất cho incumbents, xóa bỏ kiểm soát giá và giảm các loại thuế doanh nghiệp. Chính sách tự do hóa kinh tế năm 1991, được thủ tướng Ấn Độ lúc đó là P. V. Narasimha Rao và bộ trưởng tài chính của ông là Manmohan Singh khởi xướng phản ứng lại cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán, đã thủ tiêu Chế độ giấy phép Raj (cấp giấy phép nhập khẩu, công nghiệp và đầu tư) và đã chấm dứt nhiều sự độc quyền của khu vực công, cho phép phê duyệt tự động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.[49] Kể từ đó, phương hướng tự do hóa chung vẫn được giữ, bất kể chính đảng nào cầm quyền, mặc dù không có đảng nào là không cố tiến hành các cuộc vận động hành lang đầy quyền lực như các nghiệp đoàn và nông dân, hay các vấn đề có khả năng tranh cãi như đổi mới các luật lao động và giảm trợ cấp nông nghiệp.[50] Kể từ năm 1990, Ấn Độ đã nổi lên như là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất trong thế giới đang phát triển; trong thời kỳ này, nền kinh tế đã tăng trưởng ổn định, chỉ có một vài đợt giảm sút lớn. Sự tăng trưởng này đã đi cùng với sự gia tăng tuổi thọ, tỷ lệ biết chữ và an ninh lương thực. Tăng trưởng chậm và tệ tham nhũng hoành hành cuối nhiệm kỳ Manmohan Singh đã đưa Narendra Modi của đảng theo đường lối dân tộc lên nắm quyền năm 2014 và tốc độ tăng trưởng đạt 7,4% năm tài chính 2014. Xếp hạng tin tưởng của Ấn Độ bởi S&P and Moody đã bị các thử nghiệm hạt nhân năm 1998 làm sụt giảm, nhưng đã tăng lên mức đáng đầu tư từ năm 2007.[51][52] Dự báo của Goldman Sachs[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1999, Goldman Sachs đã dự báo rằng GDP của Ấn Độ theo giá thực tế sẽ vượt qua Pháp và Italia vào năm 2020, vượt Đức, Anh quốc vào năm 2025, và vượt qua Nhật Bản vào năm 2035. Đến năm 2035, Ấn Độ được cho rằng sẽ là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc[1] Lưu trữ 2007-12-02 tại Wayback Machine. Goldman Sachs đã đưa ra những dự báo này căn cứ trên tốc độ tăng trưởng dự tính của Ấn Độ là từ 5,3%-6,1% trong những thời kỳ khác nhau, còn hiện nay Ấn Độ đang đạt mức tăng trưởng hơn 9% mỗi năm. Tuy nhiên báo cáo này cũng lưu ý rằng đã có sự chênh lêch lớn giữa dự báo và thực tế đối với tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1960–2000; Dự báo là 7,5% song thực tế lại chỉ là 4,5%. Một báo cáo khác gần đây của Goldman Sachs, được BBC News trích dẫn, cho rằng: "Ấn Độ có thể vượt Anh quốc và trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới trong một thập kỷ nữa do tăng trưởng của quốc gia này tăng tốc".[53] Jim O'Neal, Nhóm trưởng của Nhóm Kinh tế học Toàn cầu tại Goldman Sachs, đã phát biển trên BBC rằng, "Sau 30 năm, lực lượng lao động của Ấn Độ sẽ lớn bằng của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc cộng lại".[54] Các dự báo tương lai khi xem xét các chuyển dịch sức mua tương đương[sửa | sửa mã nguồn]Quy mô GDP của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ trong vòng vài thập kỷ tới, có xem xét các yếu tố sức mua tương đương, các xu hướng tăng trưởng và cơ cấu dân số.Tuy nhiên, báo cáo của Goldman Sachs đã bỏ qua hiệu ứng giảm sút nhanh những tỷ lệ sức mua tương đương của các nền kinh tế khi chúng đã đạt mức trưởng thành, dẫn đến các sức mua tương đương cuối cùng có xu hướng đạt 1,0 (so với con số 5,0 đối với Ấn Độ và Trung Quốc trong năm 2007 (có nghĩa rằng giá trị 1 dollar Mỹ ở Ấn Độ và Trung Quốc sau khi chuyển đổi sang đơn vị tiền tệ địa phương theo tỷ giá hối đoái hiện tại lớn hơn 5 lần giá trị đó ở Hoa Kỳ do các đồng tiền này rẻ hơn). Sự sụt giảm này xảy ra do: (1) lạm phát và (2) sự tăng giá đồng tiền địa phương. Hai nhân tố này có thể đồng thời xảy ra, dẫn đến tốc độ tăng trưởng GDP theo mức tỷ giá là phi thường, đạt 20% hoặc hơn mỗi năm. Điều này đẫn đến việc tăng gấp đôi GDP theo giá USD cố định mỗi 3,5 năm hay đại loại (một ví dụ của hiện tượng này đã từng xảy ra đối với nền kinh tế Ấn Độ trong năm 2006-2007 như được mô tả dưới đây). Điều này đã từng xảy ra trong lịch sử ở các nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nền kinh tế mới phát triển khác được công nghiệp hóa nhanh và đuổi kịp phương Tây chỉ trong vài thập kỷ. Không có lý do gì xu hướng này lại không xảy ra với các nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ (một trong những hiện tượng này có thể nhìn thấy qua những áp lực gần đây làm tăng giá đồng tiền của Ấn Độ và Trung Quốc). Ví dụ, tốc độ tăng trưởng GDP của Ấn Độ năm 2006 là 9,4%, đồng tiền tăng giá ~10%, và lạm phát khoảng 5%, dẫn đến tăng trưởng GDP đo theo "dollar tỷ giá", (=(1+(0,1+0,05))*1,094) khoảng 26%. Thậm chí cả sau khi điều chỉnh cho mức 3% mất giá của giá trị USD thực (do lạm phát ở Mỹ), các con số này theo tỷ giá USD cố định vẫn đạt mức tăng trưởng GDP 22% mỗi năm. Điều này giải thích tại sao GDP của Ấn Độ tăng từ mức 800 tỷ USD năm 2006 lên hơn 1000 tỷ USD năm 2007. Do vậy, các con số tăng trưởng do Goldman Sachs tính toán hoặc do các tổ chức khác tính toán sử dụng tăng trưởng GDP thực tế của mỗi nước trong dự báo của mình (tương ứng với tăng trưởng trên cơ sở PPP) đã bỏ qua ảnh hưởng của sự suy giảm tỷ số PPP. Họ đã sử dụng GDP theo tỷ giá hối đoái hiện hành làm cơ sở cho các dự báo của mình về quy mô kinh tế. Bất kỳ phép ngoại suy tăng trưởng GDP nào dựa trên tăng trưởng "địa phương" trong quá khứ mà không xem xét sự suy giảm tỷ số PPP khi kinh tế phát triển đều đã đánh giá không hết tăng trưởng GDP theo tỷ giá xảy ra thực sự. Và, sai sót này sẽ lũy tích khi có thêm những dự báo mới trong tương lai. Do đó, việc dự báo hợp lý GDP bình quân đầu người trong tương lai nên căn cứ một cách đơn giản trên hai số lượng thích hợp: kích cỡ nền kinh tế hiện tại được đo bằng PPP, và tốc độ tăng trưởng thực. Căn cứ vào sự tăng trưởng PPP, người ta tính rằng GDP của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất vào thời kỳ 2009-2010, nghĩa là chỉ cách hiện nay (2007) có 3 năm. Tương tự, GDP của Ấn Độ đã vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới. Nếu dự báo tương lai nền kinh tế, người ta tính rằng nền kinh tế (GDP theo PPP) Ấn Độ sẽ có vượt qua nền kinh tế Mỹ vào khoảng năm 2024 (với mức tăng trưởng 10% mỗi năm cho Ấn Độ, 3% cho Mỹ). Nghiên cứu lịch sử kinh tế Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc sẽ cho phép thấy nền kinh tế Ấn Độ đã vừa vượt qua một nút thắt cổ chai tăng trưởng, và rằng tốc độ tăng trưởng thực của Ấn Độ có thể thậm chí cao hơn và sẽ giữ được trong nhiều thập kỷ, khiến cho sự qua mặt GDP này có thể xảy ra sớm hơn và kịch tích hơn"[55]). Mặc dù Ấn Độ trở thành nền kinh tế có GDP lớn hơn GDP của kinh tế Hoa Kỳ, thì thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ vẫn chỉ bằng ~1/4 so với của Mỹ vào lúc đó. Vì lý do như trên, chắc chắn là trong vòng 16-17 năm kể từ năm 2007, Ấn Độ vẫn tiếp tục tăng trưởng với nhịp đô như hiện nay khi nó vượt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Xem nơi bạn phù hợp với đường cong tích lũy tiền. Nếu bạn tò mò về việc liệu bạn có theo kịp Jones hay không, máy tính của chúng tôi sẽ giúp ích. Mở tài liệu Google Sheet.Tạo một bản sao.Chèn giá trị ròng của bạn.Bảng tính sẽ cho bạn biết nơi nào xếp hạng bạn trong số 128 triệu hộ gia đình ở Hoa Kỳ. Máy tính Google DocswealthWealth Calculator Máy tính giàu có ForbesBạn chỉ cần ngại 1,4 triệu đô la để nằm trong top 10%.Để trở thành một trung tâm, tích lũy 10,2 triệu đô la. Trong bảng xếp hạng này, sự giàu có bao gồm vốn chủ sở hữu nhà (thường bị loại trừ trong các cuộc thảo luận của các triệu phú).Nó không bao gồm giá trị của lương hưu, niên kim hoặc lợi ích an sinh xã hội trong tương lai. Các tính toán được dựa trên: Khảo sát năm 2016 về tài chính tiêu dùng;Ước tính tăng trưởng dân số, đánh giá cao tài sản và lạm phát trong ba năm qua;Mô hình phân phối tài sản được phát hiện trong tỷ phú Forbes và 400 báo cáo, và linh cảm về việc có bao nhiêu người giàu thoát khỏi sự phát hiện của các nhà điều tra danh sách phong phú của chúng tôi. Hiểu rằng có một số lượng không chắc chắn trong việc này hoặc trong bất kỳ đánh giá nào về sự giàu có.Các nhà khảo sát của Fed có thể hoặc không thể có được một con số trung thực về số lượng hộ gia đình trị giá 400.000 đô la có trong vốn chủ sở hữu nhà và tài khoản 401 (k).Họ chắc chắn không nhận được câu trả lời đại diện và thẳng thắn từ các hộ gia đình Milllion trị giá 40 đô la, đặc biệt là về giá trị của tác phẩm nghệ thuật và đầu tư ngoài khơi. Đối với các tỷ phú bị mất tích, có lẽ không có gì ở mức 20 tỷ đô la nhưng đủ ở mức thấp để ảnh hưởng đến hình dạng của đường cong giàu có.Hãy nhớ rằng các nghi phạm đơn thuần không đưa nó vào danh sách được công bố và đôi khi việc bán hàng hoặc cổ phiếu khiến một ứng cử viên không bị nghi ngờ trước đây xuất hiện. Máy tính chỉ có giá trị cho giá trị ròng ở nửa trên.Bên dưới trung bình, mô hình phân phối tài sản là hoàn toàn khác nhau, không chỉ bởi vì có rất nhiều hộ gia đình có giá trị tiêu cực.Các số âm chỉ đơn giản là không phù hợp với các xu hướng pháp luật quyền lực được thấy ở mức cao của phân phối. Để hạ cánh ở nửa trên, bạn phải có một giá trị ròng ít nhất một vi khuẩn.Điều đó được định nghĩa là một triệu lén lút của người sáng lập Amazon, hoặc 114.000 đô la. Mặc dù chúng tôi không cung cấp một cách để so sánh các số lượng giàu có bao gồm lương hưu và an sinh xã hội, bạn nên chú ý đến họ trong việc đánh giá sự sẵn sàng nghỉ hưu của bạn.Một trong những điều đó có thể là tài sản lớn nhất của bạn. Đối với một máy tính cho bạn biết lương hưu có giá trị bao nhiêu, hãy đi tối đa hóa lương hưu của bạn với máy tính này.Maximize Your Pension With This Calculator. Để đánh giá tài sản an sinh xã hội của bạn, nó có thể dễ dàng có giá trị 1 triệu đô la cho chiến lược yêu cầu an sinh xã hội cho thu nhập cao.Social Security Claiming Strategy for High Incomes. 1. Ước tính của bạn1 99 1 Ước tính của bạn về vị trí của bạn trong phân phối của cải Hoa Kỳ là gì?1 có nghĩa là ít giàu có nhất, 99 có nghĩa là những người giàu có nhất (là thành viên của „1 phần trăm).Con số cho thấy ước tính của bạn về tỷ lệ phần trăm dân số Hoa Kỳ sở hữu ít tài sản hơn bạn. Tiếp tục máy tính: 1 |2 |31 | 2 | 3 02/06/2020 - Kiểm tra cập nhật so sánh thu nhập của bạn và giúp chính phủ của bạn sắp xếp chiến lược phục hồi Covid -19 bằng cách chia sẻ các ưu tiên của bạn cho chi tiêu công.Công cụ web thu nhập của OECD cho phép bạn xem liệu nhận thức của bạn có phù hợp với thực tế hay không.Chỉ trong một vài cú nhấp chuột, bạn có thể thấy nơi bạn phù hợp với phân phối thu nhập của đất nước bạn.Compare your income web tool allows you to see whether your perception is in line with reality. In only a few clicks, you can see where you fit in your country's income distribution.Phiên bản mới này khám phá cách nhận thức của bạn về bất bình đẳng thu nhập ảnh hưởng đến sự sẵn sàng hỗ trợ các sáng kiến phân phối lại và cho phép bạn có tiếng nói trong lĩnh vực nào là quan trọng nhất đối với bạn đối với chi tiêu công cộng.Công cụ được xây dựng bằng cách sử dụng dữ liệu thu nhập gần đây nhất từ cơ sở dữ liệu phân phối thu nhập OECD.Thông tin ẩn danh về nhận thức của người dùng và công khai nó. Nhấn vào biểu tượng hồ sơ để chi tiết tài chính edityour.
Thuật ngữ Top 1%, thường đề cập đến những người trong số 1% người Mỹ giàu nhất hàng đầu, được đo bằng cả & NBSP; Thu nhập hàng năm hoặc giá trị ròng.Thu nhập của những người trong top 1% là nhiều bội số trên mức trung bình của người Mỹ: & nbsp;%. Mặc dù thực hiện sáu con số không nằm trong tầm tay của nhiều người, một cố vấn tài chính có thể giúp bạn xây dựng một kế hoạch tài chính cho tương lai. Thu nhập của 1% hàng đầuĐể được xem xét trong 1% người có tiền lương ở Hoa Kỳ, bạn cần phải có mức lương là 758.434 đô la, theo thông tin từ Viện Chính sách kinh tế Progressive & NBSP; (EPI), sử dụng dữ liệu tiền lương cho năm 2019. & NBSP;Để so sánh, một công nhân trung bình ở Hoa Kỳ chỉ kiếm được 57.535 đô la hàng năm. Bạn muốn xem bạn rơi ở đâu?Hãy thử nhập thu nhập của bạn vào máy tính này để xem thứ hạng của bạn, được phát triển bởi dqydj.com. Thu nhập của 1% hàng đầu vẫn đang tăng lên.Nghiên cứu từ EPI cho thấy tiền lương từ năm 2009-2019 tăng 20,4%, trong khi những người ở dưới 90%tăng ở mức dưới một nửa tỷ lệ đó-chỉ 8,7%. Đối với bối cảnh rộng hơn, EPI cũng phát hiện ra rằng khi bạn nhìn vào tiền lương từ năm 19792019, 1% hàng đầu tăng 160,3%, trong khi 90% dưới cùng thấy tiền lương chỉ tăng 26% trong cùng khoảng thời gian. Tuy nhiên, dữ liệu của EPI cho thấy những người có thu nhập trong top 10% kiếm được ít hơn đáng kể so với 1% hàng đầu.Những người thực hiện từ phần trăm thứ 90 đến 95 trung bình thấp hơn gần sáu lần - & NBSP; $ 129,998 trong năm 2019. Người kiếm tiền ở & NBSP; giữa phần trăm thứ 95 và 99 trung bình chỉ thấp hơn ba lần - & NBSP; $ 210,511 vào năm 2019. Tiểu bangTrong một nghiên cứu khác từ EPI xem xét bất bình đẳng thu nhập trong năm 2015, 1% hàng đầu cũng thay đổi tùy thuộc vào tiểu bang bạn sống. Ví dụ, ở Connecticut, bạn cần phải thu hút 700.800 đô la một năm để rơi vào top 1%, nhưng thu nhập trung bình của 1% hàng đầu của tiểu bang đó thực sự là 2,52 triệu đô la.Ở Georgia, những con số đó thấp hơn đáng kể, ở mức 371.811 đô la hàng năm để kiếm được một vị trí trong top 1% và trung bình 995.576 đô la cho tất cả những người có 1% hàng đầu trong tiểu bang đó.Ở New Jersey, những con số đó lần lượt là $ 588,575 và $ 1,58 triệu. Alabama, mặt khác, yêu cầu một mức lương hàng năm chỉ là $ 297.564 để nằm trong top 1% người có thu nhập, trong khi ngưỡng của Mississippi Mississippi chỉ là $ 254,362 hàng năm.North Dakota yêu cầu $ 445,415 một năm, trong khi ở Ohio, bạn sẽ nhập 1% với mức lương $ 334,979, mặc dù hãy nhớ rằng thu nhập trung bình của 1% người có thu nhập hàng đầu ở các bang này thường cao hơn nhiều. Top 1% theo giá trị ròngĐể đứng đầu 1% tài sản hộ gia đình ở Hoa Kỳ, bạn cần phải có giá trị ít nhất & NBSP; $ 10,374,030.10, theo Forbes.Top 1% trên toàn cầu, bạn cần tối thiểu khoảng 936.430 đô la, theo báo cáo của Global Wealth 2019 từ Credit Suisse.Sự khác biệt phản ánh, một phần, hàng thập kỷ trong đó nền kinh tế Hoa Kỳ là thế giới mạnh nhất và do đó, trong nhiều năm, người Mỹ đã tích lũy được sự giàu có với tỷ lệ cao hơn cư dân của các quốc gia khác. Đối với 10% hàng đầu ở Hoa Kỳ, mức tối thiểu là $ 1,182,390,36 và đối với 0,10%, mức tối thiểu là $ 43,090,281. Mặc dù giá trị ròng của 1% hàng đầu ở Mỹ vẫn tiếp tục tăng, tỷ lệ tăng lên đang giảm, theo & NBSP; Báo cáo của Credit Suisse Global Wealth 2019.Nhiều năm-chiến tranh thương mại với Trung Quốc, căng thẳng ở Middle & NBSP; Đông, biến động thị trường chứng khoán và mối quan tâm về việc gắn kết & NBSP; nợ chính phủ-có thể được phản ánh trong sự tăng trưởng của cải, theo báo cáo của Ngân hàng Thụy Sĩ.Sự giàu có trên mỗi người trưởng thành chỉ tăng 3% trong & nbsp; 12 tháng đến giữa năm 2019, so với mức trung bình hàng năm & NBSP; tăng 5% trong năm năm trước. 1% người Mỹ giàu nhất không chỉ trải qua sự giàu có ngày càng tăng, họ cũng đang trải qua một lát cắt ngày càng tăng của quốc gia, ông theo Cục Dự trữ Liên bang.Tỷ lệ tài sản của 1% hàng đầu tăng từ 36,3% trong năm 2013 lên 38,6% trong & NBSP; 2016, vượt qua tỷ lệ tài sản của 9% gia đình & NBSP cao nhất tiếp theo. Điểm mấu chốtĐể nằm trong tỷ lệ phần trăm cao nhất của những người có thu nhập ở Hoa Kỳ, bạn cần phải kiếm được 758.434 đô la một năm, dựa trên dữ liệu gần đây.Hãy nhớ rằng một công nhân trung bình ở Hoa Kỳ chỉ kiếm được 57,535 đô la. & NBSP; 1% người có thu nhập hàng đầu ở Hoa Kỳ kiếm được nhiều hơn 19 lần so với 90% người kiếm1% hàng đầu tiếp tục tăng.Trên thực tế, họ kiếm được nhiều hơn 160,3% so với năm 1979, trong khi 90% dưới cùng chỉ kiếm được nhiều hơn 26% trong cùng khoảng thời gian. Lời khuyên để đầu tư
Tín dụng hình ảnh: © istock.com/guvendemir, © istock.com/SL-F, © istock.com/Oleksii Didok Rachel Cautero Rachel Cautero viết về tất cả những điều tài chính cá nhân, từ các mẹo tiết kiệm hưu trí đến chính sách tiền tệ, ngay cả cách các gia đình trẻ có thể quản lý tốt nhất những thách thức tài chính khi sinh con.Tác phẩm của cô đã xuất hiện ở Atlantic, Forbes, The Balance, LearnVest, Smartasset, Hermoney, Dailyworth, The New York Observer, Marketwatch, LifeWire, The Local: East Village, New York Times Publication và New York Daily News.Rachel là một tham luận viên của Experian #creditchat và đã xuất hiện trên Cheddar Life và NPR, trên đài phát thanh Point với Meghna Chakrabarti.Cô có bằng cử nhân tại Đại học Wittenberg và bằng thạc sĩ báo chí tại Đại học New York.Đồng nghiệp của cô bao gồm con trai một tuổi của cô và một chú chó Pháp rất cần thiết. Thể loại
Top 1% của thế giới kiếm được gì?Giá trị ròng tối thiểu của 1% hàng đầu là khoảng 11,1 triệu đô la.Một người sẽ cần kiếm được trung bình $ 823,763 mỗi năm để tham gia cùng 1%.Các lỗ hổng mở rộng về sự giàu có và thu nhập xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm sự thống trị ngày càng tăng của công chúng và công bằng công cộng, và giảm thuế.$823,763 per year in order to join the top 1%. The widening gaps in wealth and income stem from a variety of factors, including the wealthiest's increasing dominance of public and private equity, and tax breaks.
Có bao nhiêu người trong 1%?Các cá nhân có giá trị ròng cực cao: Dân số toàn cầu 1 phần trăm 2021, theo quốc gia.Hơn 22 triệu cá nhân cư trú tại Hoa Kỳ thuộc về một phần trăm hàng đầu toàn cầu của các cá nhân có giá trị ròng cực cao trên toàn thế giới vào năm 2021. Trung Quốc đứng thứ hai, với hơn năm triệu người nắm giữ tài sản hàng đầu trên toàn cầu.Over 22 million individuals residing in the United States belonged to the global top one percent of ultra high net worth individuals worldwide in 2021. China ranked second, with over five million top one percent wealth holders globally. |