Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học lê tử thành

  1. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET GIÁO TRÌNH LOGIC ThS. LÊ TỬ THÀNH ThS. LÊ TỬ THÀNH Năm 2006
  2. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET LỜI NÓI ĐẦU Thưa các bạn, Trước hết, xin cho phép tôi được gọi là các "bạn". Gọi như thế vừa gọn lại vừa có một nghĩa rất rộng. Rồi đây, khi đã quen với môn Logic học, các bạn sẽ thấy "khái niệm bạn" được diễn đạt chỉ một từ thôi, nhưng lại có một ngoại diên rất rộng: khác nhau về tuổi tác cũng là bạn được, khác nhau về giới tính cũng là bạn được, khác nhau về kiến thức chuyên môn cũng là bạn được... Vả lại trong thời gian nghiên cứu môn Logic học, nguyên việc xưng hô như thế này, chúng ta cũng tiết kiệm được một ít thời gian quý báu. Thông thường khi nghiên cứu một môn học, chúng ta muốn biết môn học ấy học cái gì? Tài liệu đâu mà học? Đối với môn Logic học cũng thế. Chúng ta muốn biết đối tượng của môn học này là gì? Nó đã ra đời và phát triển qua thời gian như thế nào? Và nghiên cứu môn Logic học thì có lợi gì? Đó chính là nội dung mà chúng ta sẽ nghiên cứu hôm nay và trong 11 buổi sắp đến. Còn về tài liệu thì trên thế giới có rất nhiều. Nhưng trước hết, để được sát với chương trình, mời các bạn dùng hai cuốn sách của chúng tôi đã soạn (1- Tập bài giảng Logic học; 2- Nhập môn Logic học) và có phát hành tại Đại học Dân lập Bình Dương. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  3. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET BÀI 1 Phần thứ nhất ĐẠI CƯƠNG VỀ LOGIC HỌC 1. LOGIC HỌC LÀ GÌ? Ở nước ta, để chỉ môn học này, ngoài từ "Logic học" còn một từ nữa là "Luận lý học". Hiện nay từ Logic học thông dụng hơn. Từ Logic học của Việt Nam hay Logique của Pháp, Logic của Anh, Logik của Đức hay Logika của Nga v.v... đều bắt nguồn từ chữ Logos của Hy Lạp. Logos có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là "Khoa học về tư duy". Logique (Pháp) Logic (Anh) Logos (Hy Lạp) Logik (Đức) Khoa học về tư duy Logika (Nga) Logic (Việt) v.v… Vì vậy hiện nay, các sách Logic thường định nghĩa "Logic học là khoa học về tư duy", hay đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, Logic học được định nghĩa là "Khoa học về các qui luật và hình thức của tư duy đúng, chính xác". Qui luật của tư duy là gì và hình thức của tư duy là gì chúng ta sẽ tìm hiểu sau. Nhưng ngay đây có mấy điều cần lưu ý, xin các bạn ghi nhớ cho:  Không phải chỉ có một cách phân loại duy nhất là phân Logic học thành Logic học hình thức và Logic học biện chứng (như một số người lầm tưởng) mà còn một cách phân loại nữa cũng rất phổ biến là phân Logic học thành Logic học hình thức và Logic học ứng dụng. Logic L. hình thức L. biện chứng (Aristote, Leibniz...) (Hegel, Marx...) In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ. Logic 1. Số học
  4. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET  Chữ hình thức trong Logic học không giống với chữ hình thức chúng ta vẫn thường hiểu, tức là những gì thuộc bên ngoài, bề ngoài, ít quan trọng. Trái lại chữ hình thức trong Logic học lại cực kỳ quan trọng vì nó chỉ ra những qui luật và hình thức tư duy đúng, chính xác; nó góp phần quyết định việc ta có thể đạt đến một kết luận đúng hay không. Chẳng hạn trong ví dụ sau đây:  Mọi người đều chết  Cá sấu không phải là người  Vậy cá sấu không chết.  Rõ ràng ta có hai câu đầu (tức tiền đề), nội dung hoàn toàn đúng, nhưng vì hình thức sắp xếp chưa đúng do đó kết luận rút ra từ hai câu đầu không thể đúng được.  Logic học với tính chất là khoa học về các qui luật và hình thức của tư duy thì không có tính giai cấp, bởi vì có thế thì những người thuộc các giai cấp khác nhau, khi nói chuyện mới hiểu nhau được. Logic học là khoa học về các qui luật và hình thức của tư duy. Như vậy các qui luật và hình thức của tư duy chính là đối tượng của Logic học. Còn về mặt phương pháp, các nhà Logic học đã dùng phương pháp logic để qua những nội dung tư duy khác nhau (đa dạng, phức tạp, muôn màu muôn vẻ), vạch ra được những qui luật, qui tắc tư duy chính xác, có thể áp dụng cho bất cứ nội dung nào của tư duy. Ví dụ:  Tuyệt đại số người Việt Nam đều thích ăn nước mắm. Cô Trang là người Việt Nam. Vậy cô Trang cũng thích ăn nước mắm.  Hầu hết kim loại thì cứng. Thủy Ngân là kim loại. Cho nên Thủy Ngân cứng.  Chim phần lớn đều bay được. Chim cánh cụt là chim. Vì thế chim cánh cụt cũng bay được. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  5. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Cả ba suy luận trên đây đều sai vì có đại tiền đề (câu đầu) không phải là phán đoán chung mà là phán đoán riêng. Vấn đề này chúng ta sẽ có dịp trở lại trong những phần sau. 2. VỊ TRÍ CỦA CÁC QUI LUẬT VÀ HÌNH THỨC TƯ DUY TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC Nhận thức của con người là một quá trình gồm ba giai đoạn. Quá trình này bắt đầu từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, rồi cuối cùng là thực tiễn. Ở giai đoạn trực quan sinh động, con người nhận thức trực tiếp các sự vật hiện tượng riêng lẻ trong thế giới một cách sống động. Đến giai đoạn tư duy trừu tượng, con người dựa vào những hiểu biết ở giai đoạn trước để rút ra mối liên hệ có tính chất qui luật, tất yếu của các sự vật, hiện tượng vừa nói. Cuối cùng cần nhờ đến sự kiểm nghiệm của thực tiễn để biết những điều "rút ra được" có đúng hay không. Trong quá trình nhận thức vừa nói, đối tượng của Logic học nằm ở giai đoạn thứ hai. Cần lưu ý: Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn, hai trình độ khác nhau nhưng lại có mối liên hệ qua lại hết sức mật thiết với nhau. Nếu chỉ dừng lại ở giai đoạn trực quan sinh động mà không tiến đến tư duy trừu tượng thì con người sẽ không khám phá được tính qui luật của các sự vật, hiện tượng. Ngược lại nếu tư duy trừu tượng không bắt nguồn từ trực quan sinh động thì chỉ là tư duy trống rỗng không thể nào phản ánh đúng được các sự vật, hiện tượng. Vì vậy hai giai đoạn này không thể tách rời nhau trong một quá trình nhận thức thống nhất. 3. LƯỢC SỬ CỦA LOGIC HỌC Logic học đã có từ hơn 20 thế kỷ nay và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Từ thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, với tác phẩm Organon (tức công cụ giúp ta tư duy), Aristote được kể là người đầu tiên đã sáng lập ra môn Logic học. Tới thế kỷ XVI, với tác phẩm Novum Organum (công cụ mới) Francis Bacon bước đầu đã rút ra được những qui tắc của phương pháp thực nghiệm. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  6. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Khác với Aristote, người đã xướng xuất ra phương pháp suy luận diễn dịch, Bacon là người đầu tiên đã hình thành nên phương pháp suy luận qui nạp. Rồi Descartes ở thế kỷ XVII với cuốn Discours de la méthode (phương pháp luận) xác định thêm những qui tắc mà tư duy phải tuân theo, nếu muốn đạt đến chân lý. Logic học của Aristote ở thời cổ đại Hy Lạp ngày nay được gọi là "Logic học hình thức cổ điển". Còn Logic học của Bacon và Descartes thì được gọi là Logic học khoa học hay Logic học ứng dụng. Đến thế kỷ XVII với Kant Logic học được xây dựng trên sự đối lập giữa một bên là thế giới hiện thực hỗn độn, vô trật tự, phi logic còn một bên là tư duy logic vốn có sẵn trong đầu ta, trước khi ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau đó Hegel sửa chữa sai lầm cho Kant bằng mọi cách hợp nhất thế giới hiện thực khách quan và tư duy lại. Ông là người sáng lập ra Logic học biện chứng, chống lại Logic học siêu hình. Tuy nhiên Logic học biện chứng của Hegel còn mang tính chất duy tâm. Phải đến Marx, Engels... Logic học biện chứng mới được xây dựng trên nền tảng duy vật vững chắc. Trong khi đó, Logic học hình thức, từ thế kỷ XVII, với Leibniz đã đạt được một bước phát triển mới: đưa toán học (đại số) vào Logic học. Nay ta gọi là Logic toán hay Logic ký hiệu. 4. CÔNG DỤNG CỦA LOGIC HỌC Khi nghiên cứu một môn học, ta luôn luôn muốn biết: môn học ấy có ích lợi gì? Lợi ích càng lớn thì sức hấp dẫn càng cao. Logic học đã tồn tại từ hơn 24 thế kỷ qua, nếu kể từ Aristote với tác phẩm logic đầu tiên của nhân loại, bộ Organon. Nhân loại rất công bằng. Cái gì có lợi thì giữ lại, cái gì không có lợi thì đào thải. Vậy một môn học đã xuất hiện từ thời cổ đại, trải qua bao nhiêu cuộc sàng lọc, thử thách vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay thì chắc chắc phải là một môn học có ích. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  7. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Ở Châu Âu, ngay từ thời Trung cổ, bất cứ ở đại học nào cũng dạy môn Logic học. Thuở ấy mỗi đại học thường gồm có 3 khoa là khoa Luật, khoa Y và khoa Thần học. Trước khi chuyên hẳn về một trong 3 ngành đó, mọi sinh viên đều phải học qua giai đoạn dự bị gồm 7 môn, chia làm 3 cụm. Một cụm gồm 3 môn (trivium) là Văn học, Logic học và Hùng biện. Một cụm gồm 4 môn (quadrivium) là Số học, Hình học, Thiên văn học và Âm nhạc. Như vậy ta thấy Logic học không phải là một môn học mới. Nó đã có và được giảng dạy ở nhà trường từ lâu. Ngày nay nhiều nước không những dạy Logic ở đại học mà còn dạy ở cả trung học nữa. Bởi vì đó là một môn học mang nhiều ích lợi thiết thực cho ta trong đời sống hàng ngày cũng như trong lĩnh vực khoa học. Trong đời thường, Logic học giúp ta biết dùng từ (luôn luôn gắn chặt với khái niệm), dùng câu (luôn luôn gắn chặt với phán đoán) một cách chính xác, biết phát triển tư tưởng (suy luận) một cách hợp lý, biết trình bày ý kiến của mình một cách chặt chẽ, mạch lạc, phân biệt được tư tưởng nào là xác thực, tư tưởng nào là sai lầm, giả trá, ngụy biện. Trong lĩnh vực khoa học, muốn có khoa học ắt phải có việc nghiên cứu khoa học. Nhưng muốn có nghiên cứu khoa học thì phải có đề tài, có tư liệu, có phương pháp để khai thác tư liệu. Cuối cùng còn phải biết trình bày công trình nghiên cứu cho đúng qui cách. Tóm lại nghiên cứu khoa học là một hoạt động của tư duy. Và hoạt động ấy có tính loigc, nghĩa là có trình tự trước sau nhất định, có phương pháp để thực hiện công việc cho được hiệu quả. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  8. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1. Trả lời các câu hỏi: 2, 3, 4, 5, 6, 8 (Xem Lê Tử Thành, Nhập môn Logic học, NXB Trẻ, TP HCM, 2004, tr.275 – 276) 2. Trả lời các câu trắc nghiệm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 (Xem, sách đã dẫn, tr. 354 – 375) In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  9. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET BÀI 2 Phần thứ hai NHỮNG QUI LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY 1. ĐỊNH NGHĨA Những qui luật cơ bản của tư duy là những qui luật làm cơ sở cho mọi nhận thức và suy luận của con người. Không có những qui luật cơ bản này, chúng ta không thể nhận thức hoặc suy luận được gì hết. Ví dụ tôi nói: A = B, B = C, vậy A = C. Và tôi hỏi: "Xin lỗi các bạn, các bạn hiểu không? Các bạn đáp: "Hiểu". Trong trường hợp này, tôi là người suy luận, còn các bạn là người nhận thức. Cả hai bên đều đạt đến kết luận A = C. Do đâu chúng ta đã đạt được kết luận như thế? Xin thưa: Do chúng ta đã dựa trên qui luật đồng nhất (một trong những qui luật cơ bản của tư duy). Vì A đồng nhất với B (tức giống hệt B), B giống hệt C, nên tôi suy luận được rằng A = C và các bạn nhận thức được rằng A = C. Xin lấy một ví dụ khác. Tôi nói: "Bây giờ bên cạnh tôi đang có một cái radio". Những người khác thấy quả đúng như vậy. Thế là sự vật đang tồn tại và sự vật được tôi phản ảnh là ăn khớp với nhau, "đồng nhất" với nhau. Nếu cùng một lúc tôi nói: "Bây giờ bên cạnh tôi đang có một cái radio và không có một cái radio", như vậy là mâu thuẫn. Một sự vật không thể vừa có vừa không cùng một lúc. Vậy chỉ có thể có một trong hai trường hợp sau đây: Nếu bên cạnh tôi có một cái radio là đúng thì ai đó nói rằng không có là sai. Hoặc nếu bên cạnh tôi thực sự không có một cái radio nào cả thì ai nói có là sai. Vậy trong ví dụ này, cái radio trong thời điểm nhất định này đây chỉ có thể có hoặc không chứ không có khả năng thứ ba (tức vừa có vừa không). Vậy là ta vừa gặp hai qui luật cơ bản nữa của tư duy là luật mâu thuẫn và luật triệt tam (hay còn gọi là bài trung hoặc bác bỏ cái thứ ba) mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây. 2. PHÂN LOẠI In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  10. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Chính mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan được phản ánh vào trong óc con người tạo thành các qui luật sau đây của tư duy: 2.1. LUẬT ĐỒNG NHẤT Luật đồng nhất phản ánh tính tương đối ổn định của các sự vật vật chất vào óc con người và được phát biểu như sau: "Cái gì tồn tại thì tồn tại". Ký hiệu: A : A Nghĩa là nhờ các sự vật ở trong tình trạng tương đối ổn định mà ta xác định được vật nào ra vật đó, không nhầm lẫn, lộn xộn. Ví dụ: cái bàn là cái bàn, cây bút là cây bút, cái đèn là cái đèn v.v... Thế rồi sau khi các sự vật, hiện tượng được phản ánh vào đầu óc ta thì hình ảnh nào, khái niệm nào, phán đoán nào, suy luận nào giống nhau, được gọi là đồng nhất với nhau. Ví dụ: Khái niệm "Logic học" thì đồng nhất với khái niệm "Khoa học về các qui luật và hình thức của tư duy". Phán đoán "Không ai sống mãi" thì đồng nhất với phán đoán "Mọi người đều chết". Luật đồng nhất xem ra thật dễ hiểu và đơn giản. Thế nhưng trong cuộc sống hằng ngày, phân biệt cho thật chính xác cái gì (sự vật, hiện tượng, khái niệm, phán đoán, suy luận...) đồng nhất với cái gì thì lại không đơn giản. (Xem: Sách đã dẫn, tr.37). 2.2. LUẬT MÂU THUẪN Luật mâu thuẫn được phát biểu như sau: "Một sự vật hoặc hiện tượng nào đó không thể vừa có vừa không cùng một lúc". Nếu cùng một lúc, vừa có vừa không là mâu thuẫn. Ký hiệu: A A: ~A  Cùng một lúc  mâu thuẫn Ví dụ: Trước mặt tôi đang có cái bóng đèn hay không có cái bóng đèn chứ không thể nào vừa có vừa không được. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  11. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Có một chàng trai viết thư cho người yêu: "Em thân yêu, vì em anh sẵn sàng làm tất cả: bơi qua đại dương, lao xuống vực thẳm, nhảy vào lửa... mà không hề ngần ngại. Anh sẽ đạp bằng mọi khó khăn trở ngại để đến với em". Cuối thư chàng trai tái bút: Chủ nhật anh sẽ đến chỗ em nếu trời không mưa. Như thế là anh ta đã mâu thuẫn: Vừa làm được mọi chuyện ("đạp bằng mọi khó khăn"), lại vừa không làm được (nếu mưa thì không đến). (Xem: Sách đã dẫn, tr.41) 2.3. LUẬT TRIỆT TAM Còn gọi là luật bài trung hoặc bác bỏ cái thứ ba. Luật triệt tam có nội dung như sau: "Một sự vật, hiện tượng hoặc có hoặc không chứ không có trường hợp thứ ba". Ký hiệu: A ĐS A: ~A  SĐ \3 Một số nguyên hoặc chẵn hoặc lẻ chứ không có trường hợp thức ba: vừa chẵn vừa lẻ. Bây giờ trong túi của bạn đang có tiền hay không có tiền chứ không thể có trường hợp thứ ba: vừa có tiền, vừa không có tiền. Mời các bạn nghe câu chuyện sau đây: Có hai ông bạn gặp nhau trước một quán rượu. Một ông nói: - À, ta làm vài ly đi. Bà xã tôi vừa sinh một cháu tối hôm qua. - Xin có lời chúc mừng anh. Thế cháu ra sao? - Hoàn toàn bình thường và rất dễ thương. - Trai hay gái. - Đố anh biết đấy. - Chắc lại một thằng nữa chứ gì? - Sai rồi. - Vậy con gái phải không? Ông kia ngạc nhiên: - Giỏi thật đấy! Sao anh biết, nãy giờ tôi đã nói đâu. In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  12. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Thực ra chẳng có gì là giỏi cả. Trên đời này bình thường chỉ có hai giới tính: nam hoặc nữ. Vậy nếu con anh là bình thường thì không trai ắt là gái, chứ không có trường hợp thứ ba. 2.4. LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ Quy luật này được phát biểu như sau: "Tất cả những gì tồn tại đều có lý do để tồn tại". Nghĩa là không có sự vật nào tồn tại mà không có lý do. Vì có lý do nên ta mới hiểu được, giải thích được các sự vật, hiện tượng. Aristote phân biệt hai thứ lý do: lý do tác thành và lý do hướng đích. Lý do tác thành chỉ một hiện tượng phát sinh ra một hiện tượng khác. Còn lý do hướng đích thì chỉ cái mục đích mà một hành động được thực hiện. Ví dụ: Đây là cây bút. Cây bút là một vật đang tồn tại. Cây bút này do ai làm ra và làm ra bằng chất liệu gì? Hỏi như thế tức là hỏi lý do nào, nguyên nhân nào đã tạo thành cây bút. Còn nếu hỏi: "Cây bút này để làm gì?" tức là hỏi về lý do hướng đích của nó. Nó hướng về mục đích nào. Ta nói: mục đích của cây bút là để viết. Để hiểu rõ qui luật đầy đủ hơn, ta sẽ đi sâu vào hai qui luật sau đây: 2.4.1. Quy luật nhân quả Quy luật nhân quả được phát biểu: "Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân. Trong cùng một nguyên nhân và cùng một điều kiện, luôn luôn sinh ra cùng một kết quả". Ví dụ: Trong điều kiện bình thường, đun nước đến 100o (nguyên nhân) thì nước sôi (kết quả). Luôn luôn như thế, có cùng điều kiện và nguyên nhân như vừa nói, ta đều có được kết quả như nhau. (Xem: Sách đã dẫn, tr.47). 2.4.2. Quy luật hướng đích Luật hướng đích được phát biểu như sau: "Mọi sự vật, hiện tượng đều có hoặc đều hướng về một mục đích". Ví dụ: Mục đích của cái ghế là để ngồi, cái đồng hồ là để xem giờ, cái quạt là để cho mát, mắt là để nhìn, tai là để nghe, chim có cánh để bay, vịt có chân xòe ra để bơi lội v.v… Xem đó, không có sự vật nào tồn tại mà không hướng về một mục đích. Không ai (dù người lớn hay trẻ em) lại không thường có thắc mắc "cái này để In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  13. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET làm gì?", "cái kia để làm gì?". Để làm gì tức là có mục đích gì, có tính hướng đích như thế nào? Tuy nhiên cần lưu ý:  Trong thế giới hữu cơ, theo Darwin, luật hướng đích chỉ có tính chất tương đối: Vì trên con đường tiến hóa lâu dài của các sinh vật, bộ phận nào được dùng đến thì tồn tại và phát triển, bộ phận nào không còn được dùng đến thì thoái hóa dần và có thể biến mất. Ví dụ: Chim có cánh để bay. Nhưng con chim nào như chim cánh cụt (pingouin) ở Nam cực hay chim đà điểu không còn dùng cánh để bay nữa thì cánh không còn để bay. Nghĩa là cặp cánh của loài chim này đã mất tính hướng đích chứ không còn như đối với tổ tiên của chúng xưa kia.  Còn trong thế giới đồ vật, vốn chúng không biết hướng về một mục đích nào cả. Cái ghế không biết tự hướng về mục đích để cho con người ngồi. Cây bút không biết tự hướng về mục đích để cho con người viết. Các đồ vật này biết hướng về mục đích nào đó là do con người. Hay nói cho đúng hơn nữa, một đồ vật biết hướng về một mục đích nào đó là do một sinh vật có ý thức đã dùng nó vào mục đích ấy. Ví dụ con khỉ dùng một nhánh cây gãy khèo trái chuối ở bên ngoài chuồng mà nó không với tới được. Cho nên một vật chỉ biết hướng về một mục đích khi có ý thức. Nói khác đi, chỉ có sinh vật nào có ý thức thì mới biết tự hướng mình hay hướng một vật khác ở bên ngoài mình về một mục đích. Mà sinh vật có ý thức rõ nét nhất, không ai khác hơn là con người. Ví dụ: Tôi dùng ly để uống nước, nhưng cũng có thể dùng ly để cắm hoa, để nhốt con bướm, để chặn giấy v.v... Rõ ràng cái ly không hướng về một mục đích nhất định và duy nhất nào cả. Nó hướng về mục đích nào là do tôi. Tính hướng đích của nó là tùy thuộc ở tôi. (Xem: Sách đã dẫn, tr.49). 3. NGUỒN GỐC Những qui luật của tư duy vừa nói đến trên đây, do đâu mà có? Nói cách khác, những qui luật cơ bản của tư duy là có sẵn ở trong đầu của chúng ta hay được phản ánh từ thế giới bên ngoài vào? Cho đến nay, có hai cách giải thích khác nhau: In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  14. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Quan điểm duy tâm cho rằng các qui luật cơ bản của tư duy đã có sẵn trong trí óc con người từ khi mới sinh ra. Quan điểm duy vật cho rằng các qui luật cơ bản của tư duy là do sự phản ánh những mối liên hệ tất nhiên của thế giới khách quan vào trong ý thức của con người. Con người không sắp xếp giới tự nhiên cho phù hợp với những suy nghĩ chủ quan của mình. Trái lại chính sự suy nghĩ của con người là phản ánh những thuộc tính và những mối liên hệ của thế giới hiện thực khách quan. Cái logic trong óc con người không có gì khác hơn là sự phản ánh cái logic đang diễn ra trong giới tự nhiên, tức là cái logic khách quan. (Xem: Sách đã dẫn, tr.51). CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1. Trả lời các câu hỏi: 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 (Xem: Sách đã dẫn, tr. 277 – 278). 2. Trả lời các câu trắc nghiệm: 12, 13, 147, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21) (Xem: Sách đã dẫn, tr.357 – 361). In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  15. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET BÀI 3 Phần thứ ba NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY Chương I: KHÁI NIỆM 1. ĐỊNH NGHĨA Khái niệm là một hình thức tư duy của con người. Nó phản ánh những thuộc tính chung, chủ yếu, bản chất của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Hình vuông là hình có 4 cạnh và 4 góc bằng nhau. "Bốn cạnh và bốn góc bằng nhau" là tính chất chung thuộc về mọi hình vuông, là thuộc tính đặc biệt quan trọng (chủ yếu) của mọi hình vuông, là thuộc tính ổn định, sâu sắc, không thể thiếu (bản chất) ở mọi hình vuông. Hằng ngày ta gặp rất nhiều "hình vuông" với kích cỡ to nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau (xanh, đỏ, vàng, đen...) chất liệu khác nhau (bằng gỗ, sắt, nhôm, thủy tinh...). Nhưng đã là hình vuông thì nhất thiết phải có 4 cạnh và 4 góc bằng nhau. Bốn cạnh và bốn góc bằng nhau là thuộc tính chung, chủ yếu, bản chất của mọi hình vuông. 2. PHÂN LOẠI Tùy thuộc việc dựa vào nguồn gốc đã phát sinh ra các khái niệm hay vào sức chứa (ngoại diên) của các khái niệm mà ta có các loại sau đây: 2.1. XÉT VỀ NGUỒN GỐC, TA CÓ 3 LOẠI  Khái niệm thật: Khi đầu óc ta phản ánh đúng các sự vật hoặc hiện tượng có thật ở trong thiên nhiên. Ví dụ: "trời", "mây", "nước", "thuyền", "sông", "biển", v.v…  Khái niệm giả: khi đầu óc ta phản ánh không đúng (sai lệch) các sự vật hiện tượng có thật ở trong thiên nhiên. Ví dụ: "thần sấm", "thần sét", "thần sông", "thần núi", v.v…  Phạm trù: Những khái niệm có thuộc tính chung nhất. Ví dụ: "thời gian", "bản chất", "hiện tượng", v.v… 2.2. XÉT VỀ NGOẠI DIÊN, TA CŨNG CÓ 3 LOẠI In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  16. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET  Khái niệm đơn nhất: chỉ chứa một sự vật.  Khái niệm chung: chứa nhiều sự vật.  Khái niệm tập hợp: chứa nhiều sự vật nhưng là một chỉnh thể (không thêm, bớt được). (Xem: Sách đã dẫn, tr.56) 3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM Nhận thức của con người về tự nhiên, bao giờ cũng bắt đầu từ những cảm giác, tri giác và biểu tượng. Tiếp sau đó là giai đoạn cấu tạo các khái niệm. Về bản chất thì khái niệm khác với cảm giác, tri giác và biểu tượng. Bởi vì những thuộc tính của khái niệm không còn có tính chất cụ thể, cá biệt nữa mà có tính chất chung, bản chất. Với phân tích, ta tách toàn khối các sự vật, hiện tượng ra thành những bộ phận khác nhau, với những thuộc tính khác nhau. Sau đó với tổng hợp, ta gom các sự vật, hiện tượng có thuộc tính bản chất giống nhau về một nhóm. Thế rồi với khái quát hóa và trừu tượng hóa, ta chỉ còn giữ lại những thuộc tính chung, chủ yếu, bản chất và gạt bỏ đi tất cả những gì là ngẫu nhiên, đặc thù, thứ yếu ở các nhóm sự vật hiện tượng. Giờ đây tư duy con người vượt khỏi tính cá biệt và muôn màu muôn vẻ của sự vật, hiện tượng và chỉ còn giữ lại những gì quan trọng nhất, chung nhất. Nhờ đó ta có thể nhận thức được một cách sâu sắc bản chất của các sự vật và hiện tượng ở quanh ta. Tuy nhiên, quá trình hình thành khái niệm là một quá trình nhận thức phức tạp và lâu dài. Những thuộc tính bản chất của các sự vật và hiện tượng không phải luôn luôn được nhận thức trọn vẹn trong một lần, mà được bộc lộ dần dần qua thời gian cùng với sự nâng cao nhận thức của con người bằng hoạt động thực tiễn. 4. CẤU TRÚC CỦA KHÁI NIỆM Khái niệm nào cũng có hai phần: nội hàm và ngoại diên Nội hàm cho ta biết toàn thể những thuộc tính bản chất được phản ánh trong khái niệm. Ví dụ nội hàm của khái niệm "người" là sinh vật có lý trí, có ngôn ngữ, có bộ óc tổ chức tinh vi nhất v.v... In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  17. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET Còn ngoại diên thì cho ta biết tất cả những cá thể có chứa những thuộc tính bản chất được phản ánh trong khái niệm vừa nói. Ví dụ: người châu Á, châu Phi, châu Mỹ, người kinh, người thượng, người da đen, da trắng, da vàng... đều nằm trong sức chứa của khái niệm người. (Xem: Sách đã dẫn, T.I, tr.64). 5. QUAN HỆ GIỮA CÁC KHÁI NIỆM 5.1. QUAN HỆ ĐỒNG NHẤT Khi hai khái niệm có nội hàm và ngoại diên giống nhau. Ví dụ: Hình vuông là hình chữ nhật có các cạnh bằng nhau. 5.2. QUAN HỆ PHỤ THUỘC Khi nội hàm và ngoại diên của khái niệm này là một bộ phận của khái niệm kia. Đó là quan hệ giữa hạng và loại. Ví dụ: Mối quan hệ giữa tạp chí Quản trị kinh doanh với tạp chí là mối quan hệ phụ thuộc giữa một hạng tạp chí với loại của nó (tạp chí nói chung). 5.3. QUAN HỆ NGANG HÀNG Khi hai khái niệm đều là các hạng của cùng một loại. Ví dụ: Tạp chí Quản trị kinh doanh, tạp chí Tâm lý học, tạp chí Tin học v.v… đều là các hạng của cùng một loại (tạp chí). 5.4. QUAN HỆ GIAO NHAU Khi hai khái niệm, về nội hàm và ngoại diên có một phần trùng nhau. Ví dụ: Một số sinh viên là giáo viên. Giữa hai khái niệm sinh viên và giáo viên, có một số người vừa là giáo viên, vừa là sinh viên. Số người ấy là phần giao nhau giữa hai khái niệm. 5.5. QUAN HỆ MÂU THUẪN Khi hai khái niệm phủ định nhau và chỉ có một khái niệm được biết rõ thuộc tính. Ví dụ: tốt và không tốt, đen và không đen In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  18. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET 5.6. QUAN HỆ ĐỐI CHỌI Khi hai khái niệm đều được biết rõ thuộc tính và các thuộc tính ấy trái ngược nhau, chọi nhau. Ví dụ: Tốt và xấu, trắng và đen. (Xem thêm: Sách đã dẫn, tr.65). 6. KHÁI NIỆM VÀ TỪ Khái niệm và từ có quan hệ mật thiết với nhau. Có thể ví khái niệm như là ý và từ như là lời. Lời mà không có ý thì trống rỗng. Còn ý mà không có lời thì không thể xuất hiện trước người khác được. Vì vậy từ chính là phương tiện chuyển tải khái niệm từ trong đầu tra ra bên ngoài. Thông thường một từ chuyển tải một khái niệm (như đèn, sách, bút). Nhưng cũng có khi một từ chuyển tải nhiều khái niệm khác nhau, gây phức tạp. Ví dụ: Từ "mai" có thể chỉ ngày hôm sau, một thứ hoa, một loại rắn, phần cứng trên mu con rùa hay là vật dùng để xúc đất. Ngược lại có khái niệm cũng có thể diễn đạt bằng nhiều từ khác nhau. Ví dụ: Sắc ngược với sắc trắng và sắc đen. Nhưng ngoài từ đen còn có nhiều từ khác cũng cùng chỉ một khái niệm như mực (chó mực), mun (mèo mun), hắc (dầu hắc), ô (ngựa). Tuy cùng chỉ một khái niệm nhưng không được dùng lẫn lộn. Không ai nói bò mực, ngựa mực, mèo mực mà chỉ nói chó mực. Trong dân ca Việt Nam có điệu "Lý ngựa ô" chứ không ai nói "Lý ngựa đen", mặc dù ô và đen cũng là một khái niệm. Cho nên do có sự phức tạp trong mối quan hệ giữa khái niệm và từ như thế, ta cần lưu ý: Từ và khái niệm tuy có sự liên hệ hết sức mật thiết với nhau nhưng từ chỉ là qui ước có tính chủ quan của các cộng đồng xã hội; còn khái niệm thì lại luôn luôn phản ánh những đối tượng khách quan, có thực. Ví dụ khái niệm "nhà", dân tộc nào cũng hiểu như nhau (nơi để ở), nhưng người Pháp thì gọi là maison, người Anh gọi là house, người Đức gọi là haus, người Nga gọi là go v.v… (Xem: Sách đã dẫn, tr. 60). In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  19. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET 7. THU HẸP VÀ MỞ RỘNG KHÁI NIỆM Muốn biết một khái niệm đang được mở rộng hay thu hẹp thì phải căn cứ vào ngoại diên (tức sức chứa) của nó. Ngoại diên tăng lên, tức khái niệm đang được mở rộng. Còn ngoại diên giảm đi, tức là khái niệm đang bị thu hẹp. Ngoại diên của khái niệm mở rộng đến mức độ cuối cùng, gọi là phạm trù (hay Loại tối cao, genre suprême). Đó là lúc khái niệm có thuộc tính chung nhất, bao quát nhất. Trong mối liên hệ với các khái niệm khác, một khái niệm có thể là loại hay hạng tùy trường hợp cụ thể. Ví dụ "động vật là loại đối với con chó, con mèo, con gà, con vịt nhưng lại là hạng của sinh vật (tức một trong hai bộ phận của sinh vật là động vật và thực vật). (Xem: Sách đã dẫn, tr. 90). CÂU HỎI BÀI TẬP 1. Trả lời các câu hỏi: 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25. (Xem: Sách đã dẫn: tr. 279 – 280). 2. Trả lời các câu trắc nghiệm: 24, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42. (Xem: Sách đã dẫn: tr. 361 – 368). In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.
  20. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET BÀI 4 Phần thứ ba ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN CHIA MỘT KHÁI NIỆM Ta có thể tìm hiểu một khái niệm bằng hai cách: Định nghĩa và phân chia. Định nghĩa là xem xét khái niệm về mặt nội hàm. Còn phân chia là xem xét khái niệm về mặt ngoại diên. 1. ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM 1.1. ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM LÀ GÌ ? Là tách một "Khái niệm cần định nghĩa" ra khỏi những khái niệm tiếp cận với nó và chỉ rõ thuộc tính bản chất (tức nội hàm) của nó. Ví dụ muốn định nghĩa hình vuông, ta phải làm hai việc:  Phân biệt (tách) hình vuông khỏi những hình khác mà ta có thể lẫn lộn như hình chữ nhật, hình thoi, hình bình hành v.v…  Chỉ rõ tính chất chỉ riêng mình nó có chứ các hình khác không có: 4 cạnh và 4 góc bằng nhau. 1.2. CẤU TRÚC CÁC ĐỊNH NGHĨA Thông thường định nghĩa có cấu trúc như sau: A là B. Ví dụ: Đoạn thẳng là đường ngắn nhất nối hai điểm. Ta gọi "Đoạn thẳng" là A (khái niệm cần định nghĩa) và "đường ngắn nhất nối hai điểm" là B (khái niệm dùng để định nghĩa). Cấu trúc này còn có hai biến tướng khác nữa. Đó là trường hợp chữ "là" biến thành "khi và chỉ khi", hoặc "là" biến thành "được gọi là". (Xem: Sách đã dẫn, tr. 71). In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu hành nội bộ.

nguon tai.lieu . vn