LDH là một loại enzym có mặt ở bào tương của tất cả các tế bào trong cơ thể, được giải phóng vào máu khi có sự huỷ hoại mô, cơ quan.1. Tổng quan về LDH Khi tiến hành điện di LDH, tách biệt được 5 loại isoenzym phân bố với nồng độ khác nhau ở trong cơ thể: Hình ảnh minh họa 2. Xét nghiệm định lượng LDH trong máu được chỉ định khi nào?
* Giá trị tham chiếu theo khuyến cáo của hãng Beckman Coulter. Giá trị báo động: Theo tài liệu EJFCC: Cirtical limits of labolatory results for urgent Clinician notification (Professor Dr Lothar Thomas)4. Nguyên nhân dẫn đến chỉ số LDH trong máu tăng cao
Nồng độ LDH trong máu quá cao thường gặp trong các tổn thương cơ, gan, bệnh lý huyết học... Nếu nồng độ LDH trong máu quá cao thường gặp trong các tổn thương mô, cơ quan sau: Hiện nay, xét nghiệm định lượng nồng độ LDH trong máu là xét nghiệm thường quy đã và đang được thực hiện tại khoa Hoá sinh, Bệnh viện Việt Nam - Thuỵ Điển Uông Bí. Với đội ngũ bác sĩ chuyên môn cao ở nhiều lĩnh vực, trang thiết bị hiện đại, người dân hãy yên tâm khi có nhu cầu khám, điều trị cũng như làm các xét nghiệm liên quan đến xét nghiệm định lượng nồng độ LDH trong máu. Lactate là một sản phẩm của quá trình chuyển hóa tế bào. Tùy thuộc vào độ pH, đôi khi nó xuất hiện dưới dạng axit lactic. Tuy nhiên, với độ pH trung tính của cơ thể, phần lớn sẽ có mặt trong máu dưới dạng lactate. Thông thường, mức độ lactate trong máu và dịch não tủy là thấp. Nó được sản xuất vượt quá mức bởi các tế bào cơ, tế bào hồng cầu, não và các mô khác khi tế bào không có đủ oxy hoặc khi con đường ban đầu của sản xuất năng lượng trong các tế bào bị đứt đoạn. Sản xuất năng lượng chủ yếu xảy ra trong ty lạp thể của tế bào, là các nhà máy điện nhỏ có trong hầu hết các tế bào của cơ thể. ty lạp thể sử dụng Glucose và oxy để tạo ra ATP (adenosine triphosphate), nguồn năng lượng chính của cơ thể. được gọi là sản xuất năng lượng theo con đường hiếu khí. Bất cứ khi nào nồng độ oxy của tế bào giảm và / hoặc các ty lạp thể không hoạt động tốt, cơ thể phải chuyển sang con đường sản xuất năng lượng kém hiệu quả (sản xuất năng lượng theo con đường yếm khí) để chuyển hóa glucose và sản xuất ATP. Các sản phẩm phụ chủ yếu của quá trình yếm khí này là axit lactic. Axit lactic có thể tích lũy khi nó được sản xuất nhanh hơn so với gan có thể chuyển hóa nó . Khi nồng độ acid lactic tăng đáng kể trong máu, người bị ảnh hưởng được cho là có tăng lactate, có thể tiến triển thành nhiễm acid lactic do axit lactic tích tụ nhiều hơn. Cơ thể có thể tự bù đắp cho những ảnh hưởng của tăng lactate, nhưng nhiễm acid lactic nghiêm trọng đủ để phá vỡ thăng bằng axit / bazơ (pH) Số lượng acid lactic dư xẽ gây ra các triệu chứng như yếu cơ, thở nhanh, buồn nôn, nôn, đổ mồ hôi, và thậm chí hôn mê. TS. Đỗ Ngọc Sơn Khoa Cấp cứu – Bệnh viện Bạch Mai Nguồn Nội khoa Việt Nam (Visited 3.459 times, 4 visits today) Lượt xem: 5.028
|