Khi mới thành lập Mặt trận tổ quốc Việt Nam có tên gọi là gì

Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (MTDTTNVN) do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ngày 18/11/1930, từ Hội phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của MTDTTNVN đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) ngày nay. Trải qua chặng đường hơn 84 năm lịch sử vẻ vang, MTDTTNVN không ngừng phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mỗi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi bọn thực dân đế quốc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân.

Cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, MTDTTNVN đã không ngừng được củng cố, mở rộng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ và đã có những cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Kế tục truyền thống của Hội phản đế đồng minh (1930-1936) và Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đoàn kết vận động toàn dân tộc vùng dậy làm cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (2-9-1945). Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và không ngừng lớn mạnh trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẽ vang là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Từ ngày nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên nhân dân tăng cường đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thách thức giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh.

Ở Quảng Trị, ngay từ những năm 1930-1931, các tổ chức quần chúng như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ, Phụ nữ liên hiệp hội, Thanh niên cộng sản đoàn được xây dựng và phát triển rộng rãi, thu hút hàng vạn hội viên tham gia. Các phong trào đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống sưu cao, thuế nặng ... diễn ra mạnh mẽ. Tháng 8 năm 1941 Mặt trận Việt minh đã thu hút các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia. Các tổ chức quần chúng được mở rộng và củng cố.

Tháng 8 năm 1945, Uỷ ban Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Trị được chính thức thành lập. Phong trào cách mạng phát triển rộng khắp ở các làng xã. Mặt trận đã phát động các phong trào yêu nước thiết thực như: Tăng gia sản xuất, hủ gạo nuôi quân, mẹ chiến sĩ đỡ đầu quân đội, dân công vận tải... Thực hiện cuộc vận động khởi nghĩa, các Uỷ ban Dân tộc giải phóng được thành lập, Mặt trận đã tập hợp, tổ chức nhân dân kết hợp đấu tranh chính trị với khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, cùng cả nước đưa cách mạnh tháng 8 thành công.

Năm 1950, Đại hội Mặt trận tỉnh được tổ chức tại chiến khu Ba Lòng, Đại hội đã xây dựng chương trình công tác, xác định mục tiêu cụ thể tổ chức và động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện biên Phủ lịch sử. Sau hiệp định Giơ -Ne-Vơ, đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền, Quảng Trị là địa phương bị chia cắt, Vĩnh Linh trở thành khu vực miền Bắc XHCN. Ở Vĩnh Linh Mặt trận Tổ quốc khu vực được thành lập, tiếp tục tập hợp lực lượng quần chúng, phát động phong trào thi đua yêu nước, thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Ở miền Nam, trong khí thế đấu tranh cách mạng sục sôi, tháng 7 năm 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng Quảng Trị được thành lập, lời hiệu triệu của Mặt trận được tuyên truyền rộng khắp các địa bàn trong tỉnh. Mặt trận tập hợp tổ chức quần chúng đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, chống dồn dân lập ấp, bảo vệ cán bộ. Phong trào xây dựng lực lượng, nuôi dưỡng bộ đội, phong trào đồng khởi phá thế kìm kẹp của địch, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong những năm đánh Mỹ, Mặt trận dân tộc giải phóng Quảng Trị không ngừng phối hợp với các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang của tỉnh phấn đấu cho mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thực hiện thống nhất nước nhà, cùng với cả nước đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn .

Từ sau năm 1975, MTTQVN tỉnh Quảng Trị (1975-1976), sau này là MTTQVN tỉnh Bình-Trị-Thiên (1976-1989), tiếp tục động viên các tầng lớp nhân dân thông qua các phong trào hành động cách mạng trong lao động sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh, tạo sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội trong toàn tỉnh.

Sau khi tỉnh Quảng Trị được tái lập (1/7/1989), dưới sự lãnh đạo của BCH tỉnh Đảng bộ, qua các thời kỳ Đại hội của Mặt trận tỉnh, tổ chức Mặt trận tiếp tục được củng cố và mở rộng đến địa bàn khu dân cư; đội ngũ làm công tác Mặt trận từng bước nâng cao về phẩm chất chính trị và năng lực, trình độ, đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Nội dung và phương thức hoạt động Mặt trận ngày càng được đổi mới, đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng. Đến nay, hệ thống Mặt trận trong toàn tỉnh có: 10 UBMT huyện, thị xã và Thành phố; 141 UBMT xã, phường, thị trấn và 1144 Ban công tác Mặt trận ở địa bàn khu dân cư, với 34 tổ chức thành viên.

Cùng với truyền thống vẽ vang của Quảng Trị anh hùng, Mặt trận các cấp trong tỉnh đã góp  phần xứng đáng vào việc phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đẩy mạnh các cuộc vận động và các phong trào thi đua yêu nước, tạo nên khí thế cách mạng mẽ và rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng bộ tỉnh đã đề ra trong từng giai đoạn cách mạng.

Năm 2014, Đại hội MTTQVN các cấp và Đại hội toàn Quốc MTTQVN lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2014-2019 thành công tốt đẹp, mỡ ra thời kỳ mới của công tác Mặt trận với quyết tâm “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, tự lực, tự cường, trí tuệ, sáng tạo vượt qua khó khăn thách thức, giữ vững hòa bình, chủ quyền Quốc gia, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ Quốc Việt Nam XHCN”. Từ định hướng của Nghị quyết Đại hội, Mặt trận các cấp trong tỉnh tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tăng cường đồng thuận xã hội, phát huy dân chủ, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, tích cực xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch vững mạnh góp phần phát triển bền vững kinh tế – xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp xây dựng CNH-HĐH, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giữ vũng hòa bình, bảo vệ vững chắc tổ Quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và hạnh phúc văn minh.


BIỂU TRƯNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

     

Biểu trưng hình tròn tượng trưng cho khối thống nhất dân tộc chung mục đích xây dựng một nước Việt Nam dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Nền biểu trưng là lá cờ tổ quốc với sao vàng trên nền đỏ.

Hoa sen trắng cách điệu tượng trưng chohình tượng Hồ chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, người đã sáng lập ra Mặt trận Dân tộc thống nhất nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Những cánh sen liên kết thành một khối chính là sự đoàn kết thống nhất chính trị của tất cả người Việt Nam yêu nước.

Đường ngoài vòng cung cách điệu hai nhánh lúa nâng dòng chữ Mặt trận Tổ quốc.
Phía dưới là nửa bánh xe cách điệu tượng trưng chogiai cấp công nhân, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp cách mạng

Trong các dịp kỷ niệm hằng năm nên dùng cụm từ “Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam” hay “Ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”?

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại Điều 9 ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Tiếp theo đó, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, tại Điều 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ghi rõ: “Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Chúng ta đều hiểu rõ, sự kế thừa này bao gồm cả sự kế thừa danh xưng, tên gọi vì trong hệ thống văn bản, tài liệu của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho đến nay (tháng 6/2020) chưa có văn bản nào xác nhận ngày thành lập kèm theo tên gọi Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, mà đó chỉ là tên gọi chung mang tính khái niệm để chỉ các hình thức tổ chức hoạt động của Mặt trận được sử dụng trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam chứ không phải là tên gọi của một tổ chức Mặt trận ở một thời điểm cụ thể nào.

Từ khi thành lập và lãnh đạo cách mạng Việt Nam (3/2/1930), Đảng ta đã nhận thấy cách mạng Việt Nam không thể chỉ dựa vào giai cấp công, nông (cho dù đó là nền tảng của cách mạng) mà phải dựa vào lực lượng toàn dân, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo mới có thể giành được thắng lợi. Trước yêu cầu đó của lịch sử, ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận. Trong các giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam, do yêu cầu đòi hỏi thực tế của nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ, Đảng ta tiếp tục sáng lập các hình thức tổ chức hoạt động khác của Mặt trận như: Phản đế Liên minh (3/1935), Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế (10/1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (6/1938), Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (11/1939), Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) (19/5/1941), Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) (29/5/1946), Mặt trận Liên Việt (3/3/1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (5/9/1955), riêng ở miền Nam từ năm 1960 có thêm Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960), Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam (20/4/1968) và hiện nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (4/2/1977). Vì thế, không nên lấy tên gọi chung mang tính khái niệm để chỉ các hình thức tổ chức hoạt động của một tổ chức trong một giai đoạn là tên chính thức, mà lấy tên cuối cùng của tổ chức đó đang tồn tại hiện hữu đích thực đại diện. Tương tự như Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay đã từng có những tổ chức tiền thân và tên gọi khác nhau qua nhiều thời kỳ như: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam và ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa tên gọi và phát huy truyền thống của các tổ chức đảng Cộng sản trước đó.

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, tại “Điều 11. Ngày truyền thống và Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ghi rõ: “Ngày 18 tháng 11 hằng năm là Ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc”. Điều này cũng đã được tuyên truyền và thực hiện trong hệ thống Mặt trận từ trong rất nhiều năm qua, được phổ biến, hướng dẫn đến Ban Công tác Mặt trận hơn 110.000 khu dân cư trong cả nước cũng như trong cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Thực tế trong những năm qua, cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” đã được cán bộ, đảng viên, nhân dân, xã hội ghi nhận và nhận thức ngày càng rõ ràng, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tổ chức cũng như hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị ở nước ta.

Trở lại vấn đề lịch sử về bản “Chỉ thị ngày 18/11/1930 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh.

Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Nếu ngay trong ngày ra Chỉ thị mà Hội Phản đế Đồng minh được thành lập đúng ngày 18/11/1930 thì đây chính là hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận và có thể coi là ngày thành lập của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam hay ngày thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, khi tìm hiểu chính nội dung văn bản Chỉ thị này về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh, Chỉ thị nêu rõ cách thức tổ chức: “Chỗ nào có điều kiện là thành lập, không kể làng trước, huyện sau hay huyện trước làng sau. Khi có cơ sở là mở ngay hội nghị đại biểu, vì những chỗ này rất dễ làm, còn nông hội và các tổ chức đoàn thể quần chúng khác thì lấy danh nghĩa đoàn thể gia nhập, cử đại biểu báo cáo số lượng hội viên là đủ”1. “Chỗ nào phong trào còn thấp thì phải tổ chức từ dưới lên theo kiểu bí mật và dựa vào danh từ biến tướng như phường, hội, làm ăn, tương trợ, hiếu hỉ, để đặt nội quy biến tướng rồi do đó mà đọc báo, đọc thơ ca cách mạng cho quần chúng nghe; đầu lạ sau quen, đưa tin ở Nghệ Tĩnh, ở các nơi có phong trào cách mạng nói chuyện thầm kín, khêu gợi cho quần chúng dần dần”2. Kết luận bản Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh nêu rõ: “Thường vụ ủy tin chắc rằng: bản chỉ thị này sẽ giúp đỡ các cấp đảng ủy và toàn thể các đồng chí chúng ta phát triển mạnh mẽ được Hội Phản đế Đồng minh và tin tưởng vào lực lượng quảng đại quần chúng”.

Từ chính các nội dung Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh vừa nêu trên khẳng định ngày 18/11/1930 trên toàn cõi Việt Nam (3 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) nói riêng và Đông Dương nói chung không thể và chưa thể có một tổ chức hội phản đế đồng minh ở cấp nào (làng, huyện, tỉnh, xứ) được thành lập. Đương nhiên Hội Phản đế Đồng minh ở Đông Dương chưa có vì Điều lệ Hội Phản đế Đồng minh ghi rõ: “IV- Tổ chức: Đồng minh tổ chức theo lối địa phương. Những đoàn thể có chưn (chân) trong một Hội và ở trong một tỉnh, hoặc một xứ họp lại thành làm phân hội tỉnh hoặc một phân hội xứ. Các phân hội xứ họp lại thành Đồng minh phản đế Đông Dương”3. Cũng chính vì đó mà không thể gọi ngày 18/11/1930 là ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam hay ngày thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà lấy ngày 18/11/1930 Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh làm ngày truyền thống cũng như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định ngày 18/11 hằng năm là Ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chính xác.

Thực tế 65 năm qua, tên gọi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được nhân dân cả nước ghi nhận từ ngày 5/9/1955 Đại hội thành lập Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam khai mạc tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc. Cụ Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy tôn làm Chủ tịch danh dự. Vì thế, Hiến pháp cũng như Luật Mặt trận đều khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (gồm tất cả các hình thức tổ chức Mặt trận trước đó) do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo”. Điều này cũng đã được Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VIII thống nhất và ngày 2/8/2014 đã chỉ đạo Thường trực Ban Biên soạn cuốn sách ảnh “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Những hình ảnh lịch sử" tiếp thu Kết luận của Hội đồng thẩm định cuốn sách “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Những hình ảnh lịch sử" để chỉnh sửa và in lại bìa sách ảnh: “Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam - Những hình ảnh lịch sử nổi bật” thành “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Những hình ảnh lịch sử" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản tháng 9/2014.

Từ yêu cầu thực tiễn khoa học và nhiệm vụ công tác thông tin, tuyên truyền của Đảng trong thời kỳ mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đã cụ thể vai trò, nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó nêu rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó cũng được thể hiện rất đầy đủ trong Nghị quyết Đại hội XI, XII và dự thảo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Để thực hiện hoàn thành sứ mệnh được giao, một trong những phương thức hoạt động chủ yếu, quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là công tác thông tin, tuyên truyền (như Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Muốn vậy, công tác thông tin, tuyên truyền về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải được tổ chức tập trung, thống nhất, đồng bộ cả về nội dung, hình thức cũng như tên gọi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với phương châm dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.

Vì vậy, trong các hoạt động kỷ niệm hằng năm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thực hiện đúng như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 6/2015) quy định “Ngày 18 tháng 11 hằng năm là Ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” với đầy đủ tính pháp lý và khoa học.

Có nên nói rằng: Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã qua nhiều lần đổi tên gọi khác nhau?

Thực tế do yêu cầu nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ Đảng ta đã chỉ đạo thành lập và lãnh đạo các tổ chức Mặt trận với các hình thức tổ chức hoạt động phù hợp. Cuối năm 1939, khi tình hình thay đổi, Đảng ta đã chủ trương: “Mặt trận dân chủ thích hợp với hoàn cảnh trước kia, ngày nay không còn thích hợp nữa. Ngày nay phải thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho các dân tộc Đông Dương hoàn toàn độc lập”4. Hay Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1940 khẳng định sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương đã đề ra sách lược: “Phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, nhằm tập hợp cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất…”5 vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Như thế, trong các văn kiện Đảng ta đều yêu cầu thành lập tổ chức Mặt trận mới theo yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng chứ không hề yêu cầu “thay tên đổi họ” hay “đổi tên gọi”. Vì thế, có những giai đoạn song trùng tồn tại các hình thức tổ chức Mặt trận khác nhau như: Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt cùng hoạt động từ tháng 5/1946 đến tháng 3/1951; Giai đoạn 1955 - 1977 cả nước có 3 tổ chức Mặt trận hoạt động, đó là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (5/9/1955) (ở miền Bắc), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960) và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam (20/4/1968) ở miền Nam. Vì thế, khi viết hoặc nói “Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam sau nhiều lần thay tên đổi họ ngày nay có tên gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” hay “Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã qua nhiều lần đổi tên gọi khác nhau” là không phản ánh đúng thực tiễn lịch sử và không chuẩn xác về khoa học.

Trên đây là một số ý kiến trao đổi liên quan đến tên gọi, danh xưng, ngày thành lập, ngày truyền thống Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… để cùng trao đổi, góp phần giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của hàng triệu cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước.

Chú thích:

1, 2, 3, 4, 5. Văn kiện Đảng về Mặt trận, tập I (1930 - 1945), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ấn hành 1999, trang 64, 65, 66, 12, 13.

Nguyễn Tuấn Anh

Nguyên Trưởng ban Tuyên giáo, UBTW MTTQ Việt Nam

Video liên quan

Chủ đề