Hiệp định Pari có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp kháng chiến chống mĩ

Cập nhật lúc: 15/01/2020

Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Từ Hiệp định này, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam. Là sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Ảnh: Tư liệu nguồn internet

Với thắng lợi của Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”. Đây cũng chính là tiền đề để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.

Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam, thế chân thực dân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Việt Nam một lần nữa trải qua cuộc chiến tranh trường kỳ, bền bỉ chống Mỹ để đi tới việc ký kết Hiệp định Pari, ngày 27 tháng 1 năm 1973.

Do liên tiếp bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam, nhất là sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, thực hiện hội nghị đàm phán với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 13/5/1968), và sau đó với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 25/1/1969).

Hội nghị Pa-ri là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, giữa một bên là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại yếu về chính trị, tinh thần; với một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy có điểm yếu tương đối về quân sự và kinh tế nhưng lại có thế mạnh tuyệt đối về chính trị - tinh thần và chính nghĩa. Hội nghị còn là cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao: Nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Bởi vậy, đây là một cuộc đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý và mưu lược… khác nhau.

Từ phiên họp đầu tiên (ngày 13/5/1968) đến khi đạt được dự thảo Hiệp định Pari về Việt Nam (tháng 10/1972), Hội nghị bốn bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hoa Kỳ, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà) ở Pari đã trải qua 201 phiên họp chung công khai và 54 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng.

Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên tại Pari. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ - nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán.

Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận.

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27/1/1973 tại Trung tâm các hội nghị phố Clêbe ở Pari. Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ 7 giờ sáng ngày 28/1/1973.

Nội dung Hiệp định nêu rõ:

Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ViệtNam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Hiệp định Pari năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của Mỹ khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiệp định Pari về Việt Nam mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ của con người và nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá./.

Nguồn: Tuyết Mai – Phòng VH&TT

Ngày 27-1-1973, bốn bên cùng ký vào bản Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tức Hiệp định Paris, là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nội dung chủ yếu của Hiệp định như sau:

a. Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nước Việt Nam (Điều 4). b. Mỹ chấm dứt chiến sự ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động quân sự chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới; chấm dứt việc thả mìn tại vùng biển, cảng, sông ngòi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 2). c. Mỹ cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam (Điều 4). d. Mỹ sẽ rút hết quân đội và nhân viên quân sự, cố vấn quân sự, nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, dụng cụ chiến tranh khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 60 ngày (Điều 5). e. Sẽ thực hiện ngừng bắn tại chỗ. Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không, trên biển, ngăn cấm mọi hoạt động đối địch, khủng bố, trả thù (Điều 3). f. Trao trả nhân viên quân sự, thường dân bị bắt (Điều 8). g. Tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam quyết định quyền tự quyết thông qua tổng tuyển cử tự do dân chủ có kiểm soát quốc tế (Điều 9). h. Hai bên miền Nam sẽ hiệp thương thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần để tổ chức cuộc tổng tuyển cử (Điều 12). Một đặc điểm nổi bật trong nội dung Hiệp định Paris là phía Mỹ phải đơn phương cam kết nhiều nhất và trên những vấn đề lớn. Thực hiện Điều 5 của Hiệp định này, ngày 29-3-1973, Bộ Tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn thành lập 11 năm trước, mà nhiều người thường gọi là “Lầu năm góc phương Đông”, làm lễ cuốn cờ. Cùng ngày, tên lính Mỹ cuối cùng lên máy bay rút khỏi miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trên nhiều phương diện. Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân khỏi Việt Nam và Đông Dương, cam kết không dính líu quân sự. Còn ta thì giữ nguyên lực lượng chính trị vũ trang ở miền Nam. Mỹ phải lùi về chiến lược và ở thế phải tránh một Việt Nam thứ hai. Ta mở ra được một giai đoạn đấu tranh mới, tạo được một thế trận mới và so sánh lực lượng mới có lợi trong lúc chính quyền Sài Gòn mất chỗ dựa và nhanh chóng lún sâu vào khủng hoảng, suy sụp, là tiền đề để cách mạng miền Nam tiến lên giành toàn thắng. Hiệp định Paris cũng là thắng lợi của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Báo chí nước ngoài dành nhiều lời lẽ tốt đẹp để ca ngợi: “Khi tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, mỗi người dân Việt Nam, mỗi người bạn của dân tộc anh hùng này, mỗi chiến sĩ trong phong trào giải phóng dân tộc rộng lớn trên thế giới đều cảm thấy nhẹ nhõm và nhất là cảm thấy vui mừng trước thắng lợi lịch sử này” (Báo Người chiến sĩ, Algeria); “Thắng lợi giành được của nhân dân Việt Nam, không nghi ngờ gì nữa, có một tầm vóc lớn lao…” (Báo Nhân đạo, Pháp). Hành trình đi đến thắng lợi vừa nói trên quả rất gian khổ cam go, phức tạp cả trên chiến trường lẫn trên bàn hội nghị. Và ta thấy rõ vai trò lãnh đạo cùng những quyết định đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi quân viễn chinh Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 12 (12-1965) đề ra đường lối đấu tranh trên ba mặt trận: “Trong quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch, nêu cao ngọn cờ độc lập và hòa bình nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ”(1). Nghị quyết Trung ương 13 (1-1967) khẳng định: “Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”(2). Đấu tranh ngoại giao cũng quyết liệt, khó khăn vì Mỹ là kẻ địch hiếu chiến, theo đuổi chính sách ngoại giao trên thế mạnh. Vì vậy Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn phương thức tốt nhất để phối hợp ba mặt trận là vận dụng “vừa đánh vừa đàm” hầu như trải suốt cuộc chiến tranh. Ngoại giao ta quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vững vàng về nguyên tắc nhưng hết sức linh hoạt về sách lược, khôn khéo và mềm dẻo, đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng bước. Hội nghị Paris bắt đầu bằng cuộc đàm phán song phương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ ngày 13-5-1968. Tác nhân trực tiếp dễ thấy là cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của ta, một đòn giáng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, không ra tranh cử nhiệm kỳ mới và sẵn sàng cử đại diện thảo luận biện pháp chấm dứt chiến tranh. Bộ Chính trị Đảng ta nhận định, bắt đầu cục diện “vừa đánh vừa đàm” lúc này là thích hợp nhất. Ta nhận ngồi vào bàn đàm phán trên thế mạnh, thế đang thắng. Để ta đồng ý chấp nhận hội nghị bốn bên, ngày 31-10-1968, Johnson lại tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc. Lúc đó, cả thế giới cùng chia vui với nhân dân ta về thắng lợi này. Cuộc đàm phán Paris là hoạt động ngoại giao lớn và quan trọng nhất của ta từ trước đến nay, đồng thời là một sự kiện quốc tế được dư luận thế giới chú ý nhiều nhất, vì nó gắn liền với diễn biến của chiến trường Việt Nam và Đông Dương, gắn liền với tình hình thế giới. Trước hết nó là cuộc đấu lý, đấu tranh để phân biệt phải trái, đúng sai, không phải nói cho đối phương nghe mà để tranh thủ dư luận quốc tế và dư luận trong nước Mỹ. Cả hai phía, ta và Mỹ, đều rất coi trọng yêu cầu này. Cho đến khi tình hình chiến trường tạo được thời cơ cả hai phía mới đi vào mặc cả giải pháp. Do đó, cuộc đàm phán quốc tế đã kéo dài tới 4 năm 8 tháng, từ ngày 15-5-1968 đến 27-1-1973, và bao gồm nhiều diễn đàn khác nhau: đàm phán song phương Việt Nam – Mỹ (1968); diễn đàn bốn bên (1969 – 1971); diễn đàn gặp riêng (cuối năm 1972 đầu năm 1973) để tìm giải pháp, giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ. Đến tháng 12-1972, cuộc đàm phán Paris mở ra hy vọng sáng sủa “hòa bình trong tầm tay”. Nhưng Tổng thống xảo quyệt Nixon đã tung ra một quyết định “đầy thú tính” là mở cuộc tập kích Hà Nội, Hải Phòng bằng pháo đài bay B52 từ tối 18-12-1972. Sau 12 ngày đêm bị tổn thất nặng nề, sáng sớm ngày 31-12-1972, Nixon buộc phải tuyên bố ngừng cuộc tập kích, chỉ thị cho cố vấn Kissinger tiếp tục ngồi vào bàn Hội nghị Paris. Đợt đàm phán cuối cùng diễn ra từ ngày 8 đến 23-1-1973 thì kết thúc và ký tắt. Đến ngày 27-1-1973, Hiệp định được ký chính thức.

Nói Hiệp định Paris là thắng lợi có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dựa trên thực tế đã diễn ra. Trong vòng 10 năm (1963 – 1973), Đảng ta đã 3 lần trù tính phương thức “giành thắng lợi quyết định”. Năm 1964 định đánh đổ chế độ Sài Gòn trước khi Mỹ vào; năm 1968 định giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với đòn Tết Mậu Thân; năm 1972 định đánh gục địch với cuộc tiến công chiến lược xuân hè. Đến Hiệp định Paris, tổng hòa thắng lợi ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, buộc Mỹ rút hết quân, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”. Đây là thắng lợi một bước, nhưng là bước lớn có ý nghĩa quyết định đối với cục diện chiến tranh. Nó mở đường để hai năm sau ta giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân 1975.

————————————————–
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.650.
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 28, tr.174

Video liên quan

Chủ đề