Giáo thứ là ai

Phim ảnh

  • Thứ bảy, 4/8/2018 09:00 (GMT+7)
  • 09:00 4/8/2018

Sự ra đi của NSƯT Bùi Cường một lần nữa khiến người hâm mộ hoài niệm về một thời lẫy lừng của tác phẩm "Làng Vũ Đại ngày ấy" - đạo diễn, NSND Phạm Văn Khoa.

Đã 36 năm kể từ khi tác phẩm kinh điển Làng Vũ Đại ngày ấy ra đời. Sáng 3/8, người hâm mộ bàng hoàng trước thông tin NSƯT Bùi Cường, người đảm nhận vai Chí Phèo, qua đời. Phim gây ấn tượng mạnh với khán giả nhờ việc khắc họa chân thực khung cảnh nông thông Việt Nam trong xã hội phong kiến, nửa thuộc địa trước Cách mạng Tháng Tám. Trong đó, nhân vật Chí Phèo thuộc tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa.

Làng Vũ Đại ngày ấy được đạo diễn NSND Phạm Văn Khoa chuyển thể từ 3 tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Nam Cao, bao gồm Sống mòn, Chí Phèo và Lão Hạc. 

Năm 1982, NSƯT Bùi Cường được đạo diễn Phạm Văn Khoa tin tưởng giao vai Chí Phèo. Ông từng chia sẻ: "Tôi tự uống rượu say, tự cười, tự khóc trước gương không biết bao nhiêu lần để nhào nặn ra một anh Chí Phèo không giống ai"

. Bùi Cường đã có một vai diễn kinh điển trong đời, để tất cả những ai đóng Chí Phèo sau này đều bị ảnh hưởng bởi lối diễn xuất của ông. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6, ông vinh dự nhận Huy chương vàng cho Diễn viên chính xuất sắc. Chí Phèo là vai diễn để đời của vị NSƯT

 Bùi Cường, là nhân vật đã khiến ông bị chết vai. Những vai diễn khác trong sự nghiệp của Bùi Cường đều bị lu mờ trước sự xuất sắc của Chí Phèo. 

Sau Làng Vũ Đại ngày ấy,  Bùi Cường thăng tiến sự nghiệp nhờ các dự án như Biệt động Sài Gòn, Không có đường chân trời, Kẻ giết người.

Cố diễn viên sinh năm 1947 

chuyển sang ngạch đạo diễn từ những năm 90. Khởi đầu bằng tác phẩm Người hùng râu quặp, đến nay, ông đã sản xuất khoảng 80 tập phim truyền hình. Đáng chú ý nhất là bộ phim Vị tướng tình báo và hai bà vợ với Huy chương vàng Liên hoan phim truyền hình toàn quốc năm 2004. Sau 36 năm từ hình tượng Chí Phèo, NSƯT Bùi Cường đã ra đi vì tai biến mạch máu não. Tin buồn khiến cho nhiều đồng nghiệp, đặc biệt là những bạn diễn trong Làng Vũ Đại ngày ấy, thương tiếc.


Người sánh vai bên NSƯT Bùi Cường ngày ấy là NSƯT Đức Lưu.

 Bà vào vai Thị Nở thô kệch, xấu xí nhưng sở hữu một tâm hồn đẹp. NSƯT Đức Lưu sinh năm 1937. Bà thuộc lớp diễn viên khóa đầu tiên của trường Điện ảnh Việt Nam (nay là Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội).

 Tâm sự về vai diễn, diễn viên Đức Lưu cho biết bà phải đeo răng giả, ngậm hai cục bông hai bên miệng, gắn mũi cao su có bôi phẩm đỏ để hóa trang thành Thị Nở.

Cũng giống như vai diễn Chí Phèo của đàn em Bùi Cường, Thị Nở trở thành cái bóng lớn trong sự nghiệp của Đức Lưu. Sau tác phẩm của đạo diễn Phạm Văn Khoa, bà có tham gia một vài dự án khác nhưng không tạo được hiệu ứng. Sau đó, nghệ sĩ Đức Lưu từ bỏ nghiệp diễn để làm việc ở Đại học Kinh doanh và Công nghệ (Hà Nội). Bà còn giữ chức thư ký thường trực của Ủy ban Đoàn kết với các nước tại Thành ủy Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu.

Bên cạnh Thị Nở - Chí Phèo, giáo Thứ cũng là vai diễn để lại nhiều cảm xúc trong lòng người hâm mộ. Nếu như Chí Phèo thuộc tầng lớp bị tha hóa thì giáo Thứ là hình ảnh đại diện khối tri thức nghèo, bất lực nhìn làng quê nhiễu nhương, cường hào ác bá áp bức. Ngoài đời, NSƯT Nguyễn Hữu Mười là bạn đồng môn với Bùi Cường trong lớp diễn viên khóa hai trường Điện ảnh Việt Nam. Sau vai giáo Thứ, Hữu Mười còn thành công với nhân vật thầy giáo Khang trong Bao giờ cho đến tháng Mười. Vai diễn này đem lại Bông Sen Vàng hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc tại Liên hoan phim quốc gia lần thứ Bảy. 

Năm 1987, Hữu Mười sang Nga theo học ngành đạo diễn. Phim điện ảnh Mùi cỏ cháy do ông đạo diễn đoạt Cánh Diều Vàng năm 2011. NSƯT Hữu Mười hiện đang công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Hiện ngoài công việc đạo diễn, NSƯT Hữu Mười còn là giảng viên, giảng dạy tại Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.


Trong Làng Vũ Đại ngày ấy đặc biệt còn có sự xuất hiện của nhà văn Kim Lân trong hình tượng Lão Hạc. Ngoài đời, ông là cây bút tiêu biểu của dòng văn hiện thực trước và sau năm 1945 với các tác phẩm nổi tiếng như Làng, Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt. Kim Lân sinh năm 1920 tại Bắc Ninh, tên thật là Nguyễn Văn Tài. Với khuôn mặt khắc khổ cùng lối diễn chân thực, Lão Hạc của Kim Lân đã lấy rất nhiều nước mắt từ khán giả. Năm 2007, nhà văn ra đi trong sự tiếc thương của bạn bè đồng nghiệp và người hâm mộ.


Hơn 30 năm trôi qua nhưng khán giả vẫn nhớ hình ảnh phụ nữ nông thôn thuần túy của nhân vật vợ giáo Thứ dưới màn hóa thân của NSƯT Thanh Hiền. Bén duyên điện ảnh từ vai Mến của Sao tháng Tám, Thanh Hiền thường đảm nhận những nhân vật đức hạnh nhưng phải chịu thiệt thòi. Diễn xuất của NSƯT được đánh giá là sống động từ biểu cảm tới cử chỉ. Dù thời lượng xuất hiện không nhiều nhưng bà vẫn có phân đoạn ấn tượng Làng Vũ Đại ngày ấy. Cụ thể là chi tiết vợ thầy giáo Thứ đang nói dối để dành cho chồng bát cháo hoa lúc ốm. Tới nay, NSƯT Thanh Hiền vẫn dành nhiều đam mê với nghiệp diễn xuất. Dự án gần nhất bà tham gia là Bước nhảy Xì-tin (2009).


Làng Vũ Đại ngày ấy NSƯT Bùi Cường NSƯT Đức Lưu NSƯT Thanh Hiền NSƯT Hữu Mười Nam Cao Kim Lân

Sống mòn là một thiên tiểu thuyết hiện thực dưới ngòi bút của nhà văn thiên tài Nam Cao. Tác phẩm là một bức tranh lột tả cuộc sống cơ cực của những kiếp người bất hạnh bị cái nghèo, cái đói biến thành nô lệ.

Đôi nét về tác giả Nam Cao và tiểu thuyết Sống mòn

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Cả cuộc đời, nhà văn vừa cầm bút viết văn, vừa vác súng chiến đấu bảo vệ nước nhà.

Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực, các tác phẩm của ông đã lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời.

Chân dung của nhà văn Nam Cao

Ngòi bút của Nam Cao tập trung chủ yếu vào hai chủ đề: Người tri thức nghèo và người nông dân thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, phong cách viết của ông vừa chân thực vừa trữ tình, trào phúng lại không thiếu phần tinh tế.

”Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình, thiên chức của mình.”

Sau hơn mười lăm năm cầm bút, Nam Cao đã để lại cho đời sau một khối lượng truyện ngắn cùng tiểu thuyết đồ sộ, tên tuổi ông gắn liền với những tác phẩm văn học nổi tiếng như Chí Phèo, Lão Hạc hay Đời thừa. Trong đó không thể không nhắc đến Sống mòn, một thiên tiểu thuyết hiện thực neo đậu vững chắc trong lòng độc giả xuyên suốt theo năm tháng.

Ảnh bìa do NXB Văn hóa thông tin phát hành

Tác phẩm Sống mòn được xuất bản vào 1956 với tên ban đầu là Chết mòn, tuy nhiên tiểu thuyết đã hoàn thành vào năm 1944 và được nhà văn Tô Hoài giữ bản thảo trong suốt những năm tháng kháng chiến.

”Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.” – Nam Cao khẳng định về phong cách nghệ thuật mà nhà văn hướng về.

Sống mòn không phải là một áng văn chương dịu dàng lãng mạn hay trữ tình đẹp đẽ, nó là một tấm gương lớn đặt giữa xã hội đương thời, để người đọc soi vào đó mà thấy được những mảnh đời u tối, bi thảm, chua xót, nhìn quanh bốn bề đều mịt mù ảm đạm.

Sống mòn là sống nhưng hồn đã chết trong cuộc đời của chính mình

Mạch văn của tiểu thuyết không nhanh không chậm, xuyên suốt câu chuyện, người đọc dường như chỉ thấy một màu sắc u ám, ảm đạm của cuộc sống quẩn quanh trong hai chữ nghèo khổ. Sống mòn để cho người đọc cảm nhận được một nỗi thống khổ dồn nén trong từng câu từ, như có một cái gì nghẹn lại ở ngực, muốn khóc lại không thể khóc.

Tiểu thuyết không có quá nhiều nhân vật, cũng không có những tình tiết cao trào hay giật gân, nó chỉ xoay quanh cuộc sống thường nhật của những con người sống trong cái kiếp nghèo khổ để rồi bản tính tốt của người ta lại bị bào mòn trong cái đói, cái kém ấy.

Nhân vật chính của câu chuyện là một thầy giáo tên Thứ, anh từ bỏ cuộc sống chốn làng quê và gia đình của mình để lên Hà Thành làm thầy giáo cho một trường tư của anh họ là Đích với hy vọng sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên những mơ ước của Thứ đã dần lụi tàn theo cuộc sống cơ cực nơi tha phương, nhiều mối lo đè nặng lên vai anh, từ chuyện tiền nhà trọ, tiền lương không đủ sống hay bị đối xử ích kỷ, hẹp hòi bởi những người xung quanh.

Tiểu thuyết Sống mòn bìa cứng do NXB Văn học phát hành

Điều này đã làm cho Thứ có cảm giác như mình đang chết dần đi từng ngày bởi cái vòng lặp nghèo khổ oan nghiệt của cuộc đời. Chính cái nghèo đã thay đổi con người anh và hơn hết là thay đổi cả đời của Thứ.

Nó khiến cho anh và Liên, vợ của mình phải chia đôi hai ngả và làm cho hiểu lầm chồng chất hiểu lầm, những đau khổ, uất ức, tủi hờn của cuộc đời đều do cái nghèo, cái đói gây nên.

”Cái nghèo chẳng có ích cho ai, nó làm tiêu mòn sức lực, héo hắt tâm hồn. Nó khiến người ta thành bủn xỉn, nhỏ nhen, ích kỷ, sát bờ đất, nó tạo nên thành nô lệ của đời người.”

Cái chết không đáng sợ, đáng sợ là chết trong lúc sống, sự bám riết mòn mỏi và dai dẳng của cái nghèo khiến người ta có cảm tưởng mỗi ngày thức dậy là mỗi ngày tiến gần hơn đến tang lễ của mình.

Trích dẫn sâu sắc từ tiểu thuyết Sống mòn

Thứ cũng không ngoại lệ, anh cho rằng rồi mai đây “đời y sẽ sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê…rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”.

Sự thay đổi trong tâm hồn của những mảnh đời bị cái nghèo nhấn chìm

Sống dưới mái nhà trọ xập xệ và cáu bẩn, Thứ biết thêm nhiều người mới cũng khổ đau và bất hạnh bởi nghèo.

Như người mẹ trẻ túng bần phải làm quần quật cả ngày để nuôi hai đứa con thơ, chen chúc trong một căn nhà lá chật chội, hàng ngày nhẫn nhục nhìn cảnh chồng quấn quýt, chung chạ với người vợ hai mà không thèm đoái hoài gì đến mình.

Như Oanh, một con người có học thức và gia giáo cũng vì cái nghèo mà trở nên ích kỷ nhỏ nhen, cô làm đủ mọi cách để không phải chịu đói, thậm chí Oanh còn sợ phải đứng ra lo ma chay cho vị hôn thê đang hấp hối của của mình, cô không muốn làm điều đó mà cũng chẳng có khả năng làm.

Như những đoàn người ăn mặc rách rưới bẩn thỉu nơi đầu đường xó chợ chỉ chực chờ sự bố thí của những kẻ giàu có để kiếm miếng ăn. Cái nghèo bao trùm lên cuộc đời của tất cả những con người ở tầng lớp thấp.

Nó khiến người ta trở nên cục súc, cáu bẳn hơn bao giờ hết và nghèo còn khiến tâm hồn, lý tưởng của một con người bị mài mòn đi trong từng giờ khắc.

Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm

Ban đầu tiểu thuyết có tên là Chết mòn, một cái chết chậm rãi từng ngày, đó là bi kịch được dự báo trước từ lúc Thứ sinh ra trong một gia đình nghèo, cái nghèo bám riết anh từ thuở còn thơ.

Một trích đoạn nhỏ của tiểu thuyết Sống mòn

Tuy nhiên cuối cùng Nam Cao lại quyết định đổi tên thành Sống mòn, có lẽ ông muốn nhấn mạnh hơn về cái bi kịch mà Thứ đang phải chịu đựng.

Những đồng lương ít ỏi, những lo toan thường nhật, tình yêu của Thứ cũng bị cái nghèo làm mờ đi, trở nên méo mó và mất đi hình dạng ban đầu để rồi mỗi đêm nhớ về vợ mình, anh lại chì chiết và lên án Liên thậm tệ.

Số phận vùi dập Thứ và cả cuộc đời cũng vậy, anh có ước mơ và có hoài bão bởi bản thân Thứ cũng là người có học thức, cuộc đời anh có lẽ cũng sẽ rẽ sang một trang mới tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn nếu số phận không khắc nghiệt như thế.

Bìa sách của tiểu thuyết hiện thực Sống mòn

Với tên Sống mòn, Nam Cao đã đưa tác phẩm của mình lên một tầm cao mới, có chiều sâu và tinh tế hơn so với cái tên cũ.

Những đánh giá về tiểu thuyết Sống mòn

Sau khi tiểu thuyết Sống mòn xuất bản, tác phẩm đã nhận được rất nhiều nhận định đáng giá từ giới phê bình văn học, tác phẩm đã trở thành một tấm gương sáng mà muôn đời sau hậu thế sẽ soi vào mà hiểu được những khổ cực của xã hội phong kiến nửa thực dân đương thời.

“Cái thời gian hằng ngày để tìm kiếm miếng ăn đã choán gần hết những giây phút sáng tạo của Thứ trong Sống mòn. Không gian trong sáng tác của Nam Cao là không gian hướng nội, không gian nhỏ hẹp, không gian được kiến tạo trong tầm nhìn của nhân vật.”

Như thế có thể thấy, tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao được thu lại trong cuộc sống thường nhật của người tri thức nghèo, không tô vẽ cũng không làm hoa mỹ tình tiết, tuy nhiên vẫn giữ được tính thẩm mỹ của câu từ.

Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, ông đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả ngay từ những trang văn đầu tiên.

Cùng với Lão Hạc và Chí Phèo, Sống mòn đã được chuyển thể thành phim ảnh do Phạm Văn Khoa đạo diễn, lấy tên là Làng Vũ Đại ngày ấy, bộ ba tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao kết hợp lại với nhau cùng xuất hiện trên màn ảnh đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho khán giả.

Nhân vật thầy giáo Thứ trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy

Sống mòn là một thiên tiểu thuyết hiện thực thành công bật nhất của Nam Cao, mặc dù không thể vượt qua cái bóng của Chí Phèo nhưng tác phẩm này cũng đã neo đậu lại trong lòng rất nhiều khán giả suốt một thời gian dài.

Đến khi gấp lại cuốn tiểu thuyết, người đọc dường như vẫn chưa thoát ra được khỏi sự ảm đạm và bí bách mà nó mang lại, một bức tranh về hiện thực khắc nghiệt về quá trình biến đổi bản chất của con người trong sự nghèo đói.

Sống mòn giống như tiếng gọi đàn, là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu, một điều không thể phủ nhận, cuốn tiểu thuyết này chính là kiệt tác vĩ đại thăng hoa từ mảnh đất hiện thực màu mỡ, rất đáng để chúng ta đọc một lần.

Diệu Uyển

Video liên quan

Chủ đề