Ghi nhận sóng t dẹt d3 là gì

2012-10-11 11:32 AM

Tuy nhiên, đến V5, V6, T hoàn toàn có thể hơi thấp xuống do điện cực đã xa tim hơn, ở những chuyển đạo thực quản cao, và trong buồng tim, sóng T đều âm .Trong lâm sàng, thường người ta chỉ chú trọng hình dạng và biên độ sóng T mà không cần tính thời hạn tức bề rộng của T .

Các hình dạng hay gặp của sóng T như sau:

 

Ghi nhận sóng t dẹt d3 là gì

Khi T dương, người ta hay tả biên độ của nó bằng những từ ngữ T cao, T thông thường, T thấp, T dẹt, T đồng điện và người ta cũng hay tính biên độ tương đối của T so với R cùng chuyển đạo đó ( nhất là V5, V6 ), thí dụ : T / R = 1/3 …
Khi T âm, người ta tả biên độ nó bằng những từ ngữ T âm nhẹ, T âm sâu … và cũng có tính biên độ tuyệt đối của nó ra milimét, thí dụ T = – 4 mm
T hai pha thường chỉ là dạng trung gian hay chuyển tiếp giữa T dương và T âm .

Sóng T bình thường

Bình thường, sóng T rộng và đậm nét, đỉnh tầy, hai sườn không đối xứng, với sườn xuống dốc đứng hơn còn sườn lên tiếp thoai thoải với đoạn ST. Sóng T :

 

Ghi nhận sóng t dẹt d3 là gì

Bao giờ cũng dương ở D1, aVF, V3, V4, V5, V6 với biên độ lớn nhất ở V3, V4 ; ở đây, biên độ trung bình là 6 mm và tối đa là 12 mm. Biên độ tương đối T / R ở V5, V6 trung bình là 1/3 và tối thiểu là 1/10 .
Bao giờ cũng âm ở aVR .
Ở D2 : Đa số là dương, một số ít nhỏ 2 pha .
Ở D3, aVL, V2 : hầu hết là dương, một số ít nhỏ hai pha hay âm .
Ở V4 : hầu hết là âm ( tối đa sâu 4 mm ) 1 số ít nhỏ là hai pha hay dương .
Như vậy, quy luật chung ở những chuyển đạo trước tim là : nếu xem xét sóng T lần lượt từ V1 đến V6 ( nghĩa là từ phải sang trái bệnh nhân ) thì sóng T phải chuyển dần từ âm tính sang dương thế .
Tuy nhiên, đến V5, V6, T hoàn toàn có thể hơi thấp xuống do điện cực đã xa tim hơn. Ở những chuyển đạo thực quản cao và trong buồng tim, sóng T đều âm .

Sóng T bệnh lý

Khi T âm ở một chuyển đạo mà bình thường nó phải dương (hoặc dương ở một chuyển đạo mà bình thường  nó phải âm như ở aVR chẳng hạn) thì là một dấu hiệu bệnh lý chắc chắn, nhưng là của rất nhiều bệnh chứ không đặc hiệu cho bệnh nào.

Muốn biết T âm do bệnh gì thì việc tiên phong là phải xét mối đối sánh tương quan của nó với QRS :

 

Ghi nhận sóng t dẹt d3 là gì

Nếu QRS bị giãn rộng hay có biên độ cao nghĩa là có những đổi khác bệnh lý của blốc nhánh, ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất, hội chứng W-P-W, dày thất trái hay một số ít ít ca dày thất phải thì hoàn toàn có thể T âm chỉ là triệu chứng của những bệnh đó. Người ta gọi là T thứ phát. Trong trường hợp này, T vẫn giữ được hình dạng không đối xứng, cong, mềm mại và mượt mà …
Nếu QRS không giãn r ộng hay quá cao, nghĩa là không có triệu chứng của những bệnh nêu trên thì T âm ( hay dẹt ) thường là triệu chứng của bệnh mạch vành ( nhồi máu cơ tim, cơn nghẹn tim ), của viêm màng ngoài tim, của thực trạng cơ tim thiếu oxy ( với dày thất phải ) trong tim bẩm sinh tím hay tâm phế mạn. Người ta gọi là T tiên phát .
Ngoài ra, T âm tiên phát còn gặp trong suy tim, tê phù, thiếu máu, thiếu oxy trong máu nói chung, những rối loạn chuyển hóa trong viêm họng cấp, hạ canxi máu, tăng kali máu, nhiễm toan, nhiễm kiềm, hoại tử gan .
T thứ phát thường biến đổi, tỉ lệ với mức độ đổi khác của QRS, thí dụ QRS càng giãn rộng hay càng cao thì T càng âm sâu hơn .
Nhưng có những ca, với một mức độ rộng hay cao nhất định nào đó của QRS mà T âm không đủ sâu hay lại sâu quá, hay có khi lại dương thì phải nghĩ là có cả một T tiên phát phối hợp vào nó gây cho nó hình dạng “ nửa dơi, nửa chuột ” như vậy. Trường hợp này ta gọi là T hỗn hợp thường là do những bệnh phối hợp nhau sinh ra .
Thí dụ : trong dày thất trái ( T thứ phát ) phối hợp với bệnh mạch vành ( T tiên phát ) và hoàn toàn có thể cho một sóng T hỗn hợp âm rất sâu, đối xứng và nhọn. Cần quan tâm rằng ST chênh thường cũng hay hỗn hợp tương tự như và đi kèm với T hỗn hợp để lập thành STT hỗn hợp .
Tất cả những mức độ âm sâu, nông của T so với QRS như đã nói ở trên thường hoàn toàn có thể nhìn nhận được qua kinh nghiệm tay nghề đọc và chẩn đoán điện tâm đồ .
Ở những chuyển đạo trước tim, một sóng T âm sẽ chắc như đinh là bệnh lý ( thiểu năng vành … ) nếu nó đứng trái quy luật ( xem trên ) nghĩa là có kèm một sóng T dương ở những chuyển đạo nằm ở mé bên phải của nó. Thí dụ T ở V1 thông thường hoàn toàn có thể âm nhưng nếu T ở V1 dương thì T ở V2 âm chắc như đinh là bệnh lý .
Nói chung, T càng âm sâu thì càng bệnh lý hơn. T hai pha kiểu – / + có giá trị bệnh lý như T âm nhẹ, còn T hai pha kiểu + / – và T dẹt thì có giá trị bệnh lý thấp hơn .
Khi T trở thành đối xứng với hai sườn có độ dốc bằng nhau, chỗ tiếp nối đuôi nhau với ST không thoai thoải mà gấp khúc thành một góc rõ ràng, T có đỉnh nhọn hoặc có dạng chẻ đôi, nhất là ở V5, V6 thì tiên phong phải nghĩ đến bệnh mạch vành, rồi đến những nguyên do tiên phát khác ( xem trên ) .

Khi T có dạng quá tròn trĩnh thì nên nghĩ đ ến một rối loạn điện giải.

Tất cả những hình dạng đó đều hoàn toàn có thể đi một mình hoặc phối hợp với T âm, như thế nó càng có giá trị bệnh lý hơn .
Khi T dương và cao ( và do cao quá nên đỉnh hơi nhọn ) ở nhiều chuyển đạo thì thường là do nhịp nhanh hay cường thần kinh ở người trẻ, do gắng sức hay ở “ tim vận động viên ”. Nếu T cao nhọn xảy ra đột xuất ở một vài chuyển đạo thì đôi lúc đó là “ hình ảnh gián tiếp ” của bệnh mạch vành .
Khi T dẹt ở hầu hết những chuyển đạo thì phần đông là do phối hợp với sự giảm biên độ của QRS, tạo nên hình ảnh điện thế thấp ( xem mục này ) .