Đánh giá về an dương vương mị châu trọng thủy

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy” được trích từ “Sự tích Rùa Vàng” dựa trên bối cảnh lịch sử dựng nước và giữ nước. Dưới đây là bài viết về Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Mục lục bài viết

1.1. Mở bài:

Giới thiệu về Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Nêu nội dun khái quát của truyện.

1.2. Thân bài:

An Dương Vương xây thành, chế nỏ, bảo vệ đất nước

– Vua An Dương Vương xây thành gặp nhiều khó khăn, khi mà “hễ đắp tới đâu là lại lở tới đấy”. Nhà vua lập đàn tai giới, cầu đảo bách thần. Sau đó, có một cụ già từ phía Đông đến và nhà vua ra tận của của đông chờ đợi đón Rùa Vàng.

→ An Dương Vương là người kiên trì, quyết không ngại khó khăn, tâm huyết với việc xây thành, và lo lắng cho vận mệnh của đất nước và đặc biệt biết biết trọng người hiền tài.

– An Dương Vương xây thành “rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”

→ Tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua An Dương Vương.

– Khi Rùa Vàng rời đi, An Dương Vương lo lắng khi nghĩ về tương lai: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”

→ Ý thức của người đứng đầu với tinh thần cảnh giác cao độ.

– Lấy vuốt rùa làm nỏ đánh thắng mọi kẻ thù.

⇒ Thành công hình tượng vị vua sáng suốt, anh minh, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của nhân dân, biết trọng người tài, vì vậy nhận được sự giúp đỡ của cả trời đất. Vị vua ấy luôn nhận được sự ngợi ca của toàn thể nhân dân.

Những sai lầm của An Dương Vương

– Chủ quan: Nhận lời cầu hòa của Triệu Đà, gả con gái cho Trọng Thủy và cho Trọng Thủy ở rể.

– Ỷ lại vào vũ khí mà lơ là cảnh giác, xem thường kẻ thù: lúc giặc đến vẫn mải đánh cờ.

– Chi tiết An Dương Vương giết chết con gái thể hiện sự quyết liệt, dứt khoát đứng về lợi ích chung của cả dân tộc, cũng là sự thức tỉnh muộn màng của An Dương Vương

– An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển đã hóa bất tử qua đó, thể hiện sự trân trọng của nhân dân với nhà vua.

Bi kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy

Nhân vật Mị Châu:

– Hết lòng tin tưởng chồng: cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần.

– Nhẹ dạ cả tin, chỉ biết đến hạnh phúc cá nhân: khi bị giặc truy đuổi, đánh dấu cho Trọng Thủy lần theo

– Bị kết tội là giặc và bị chém chết là sự trừng trị nghiêm khắc nhất

– Lời thề của trước lúc chết là lời thanh minh cho tấm lòng trong trắng của mình.

– Máu hóa Mị Châu hóa thành ngọc trai, còn xác hóa thành ngọc thạch thể hiện sự bao dung với sự trong trắng, vô tình phạm tội; vừa thể hiện thái độ trừng trị của nhân dân của lịch sử

Nhân vật Trọng Thủy:

– Thời kì đầu: là một tên gián điệp sang làm rể để điều tra bí mật.

– Thời gian ở Loa Thành: lừa Mị Châu lợi dụng sự chủ quan lơ của An Dương Vương giúp y hoàn thành kế hoạch đen tối.

– Khi Mị Châu chết, khóc lóc, thương nhớ rồi tự tử, chính là sự hối hận muộn màng.

– Hình ảnh ngọc trai và giếng nước ở cuối chuyện là tấm lòng bao dung của nhân dân dành cho Mị Châu và Trọng Thủy.

Bài học từ bi kịch mất nước

– Đề cao cảnh giác với kẻ thù, không chủ quan trước bất cứ hoàn cảnh nào.

– Luôn luôn đặt quan hệ riêng, chung đúng mực, phải đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi cá nhân

1.3. Kết bài:

Nêu cảm nhận cá nhân về truyện

2. Mở bài phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy ngắn gọn nhất:

Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết vô cùng đặc sắc về chủ tài dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nội dung kể về hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, cả tin nên đã bị cha con Triệu Đà, Trọng Thủy cướp tài sản dẫn đến nước mất nhà tan. Qua thất bại đau thương của An Dương Vương, sự tan vỡ tình cha con và kết cục bi thảm của đôi Mỵ Châu – Trọng Thủy, nhân dân ta đã thể hiện tinh thần phản kháng chiến tranh xâm lược và rút ra bài học kinh nghiệm. Học cách bảo vệ Tổ quốc một cách sâu sắc: không được chủ quan, tự mãn, ỷ lại, phải luôn sáng suốt phân biệt bạn và thù, nâng cao tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù.

3. Thân bài phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy ngắn gọn nhất:

Câu chuyện có thể được chia thành hai phần. Phần một (từ đầu đến… không dám chỉ huy chiến tranh nên xin hòa): An Dương Vương xây thành, chế nỏ để giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu Mỵ Châu – Trọng Thủy gắn liền với sự suy vong của nước Âu Lạc. Cả hai phần truyện đều thể hiện rõ nhận thức, thái độ của nhân dân đối với vai trò, trách nhiệm của An Dương Vương và con trai trước lịch sử.

An Dương Vương kế tục công cuộc dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Văn Lang lúc bấy giờ cũng đã thử sức với đất nước và văn hóa của mình. Vì vậy, chống giặc giữ nước là vấn đề sống còn của dân tộc. An Dương Vương dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đồng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông. tòa thành. Đó là một quyết định đúng đắn thể hiện trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.

Thật khó để xây dựng một tòa thành trên trái đất. Tương truyền rằng thành xây ban ngày sẽ đổ ban đêm, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng này là do ma quỷ phá hoại. Bỏ yếu tố thần thoại sang một bên, có thể thấy những khó khăn thực tế mà An Dương Vương gặp phải khi tiến hành xây dựng kinh thành. Đó là do ông không hiểu đặc điểm của vùng đất đồng bằng, do kỹ thuật hạn chế và không biết dựa vào sức dân.

Sau đó, với sự trợ giúp của sứ Thanh Giang là Rùa Vàng, An Dương Vương đã xây thành trong vòng nửa tháng. Hành động lập đàn trai, đón ông lão vào cung hỏi kế đắp thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe Rùa vàng trừ yêu v.v. ., thể hiện thái độ trân trọng tài năng của An Dương Vương. trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc An Dương Vương xây dựng Loa Thành là thuận theo ý trời, hợp lòng người nên được nhân dân đồng tình ủng hộ.

An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự kiệt xuất. Ông biết đắp thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ giúp chế tạo cung nỏ đánh giặc. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian huyền hoặc, thần thánh hóa bằng hình ảnh chiếc nỏ. Hình ảnh chủ đạo của truyện là mái chèo thần. Rùa Vàng giúp vua xây Loa Thành và trao vũ khí để bảo vệ đất nước. Cây thánh giá thẳng tắp tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chinh phục giặc ngoại xâm của ông cha ta thời bấy giờ.

Chiếc nỏ thần một phát có thể bắn hàng nghìn địch thủ vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sử dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo cung nỏ và đúc tôn đồng. Thứ vũ khí đó tuy thô sơ nhưng không kém phần hiệu quả trong việc chống xâm lược. Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, do An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu nên xin hòa.

Chiến thắng của An Dương Vương đã chứng tỏ sức mạnh quân sự của nước Âu Lạc thời bấy giờ, khẳng định ý chí và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau chiến thắng, An Dương Vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của giặc phương Bắc luôn hiện hữu.

Chúng ta xót xa cho cha con An Dương Vương vì một sai lầm tai hại dẫn đến thảm họa mất nước. Nhà vua không phân tích được rằng việc giảng hòa rồi cầu hôn con trai Triệu Đà thực chất là một âm mưu hiểm độc chuẩn bị cho một cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương Vương không bị bại lộ cho đến khi quân giặc áp sát chân thành, mà bại lộ khi nhà vua mất cảnh giác và đồng ý cho Trọng Thủy vào thành.

Bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thủy, lại còn cho ở rể, có khác nào “Nuôi ong tay áo, trong nhà nuôi cáo”?! Đây là hòa bình không chính đáng, tạo thời cơ thuận lợi cho địch đánh phá từ bên trong. Mầm mống mất nước bắt nguồn từ đây. Sau chiến thắng, An Dương Vương không màng đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để đánh giặc mà dựa vào binh khí và sự ủng hộ của thần thánh. Kẻ thù nắm tất cả dẫn đến thất bại tất yếu.

Nghe tin Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương vốn có nỏ thần bỗng ngồi đánh cờ, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn đến thất bại thê thảm của An Dương Vương. Giặc đã đến chân thành, An Dương Vương lấy nỏ, thấy mất thần, bỏ chạy. Giữa cảnh túng thiếu, An Dương Vương chỉ còn cách đem con gái lên ngựa, rời kinh thành chạy về phương Nam. Hai cha con An Dương Vương cùng đường nhưng quân giặc cứ theo lông ngỗng rắc dọc đường của Mị Châu mà đuổi sát phía sau. Đúng là An Dương Vương và con trai đã mất tư cách thiên tử.

Khi Rùa Vàng xuất hiện trên mặt nước hét lên: “Kẻ nào ngồi sau ngựa là giặc” thì An Dương Vương mới sực tỉnh. Đây chính là sự lên án mạnh mẽ của công lý và nhân dân đối với tội phản quốc vô tình của Mỵ Châu. Nhà vua đã tự tay chém chết người con gái yêu của mình, đồng thời cũng tự trừng phạt mình một cách nghiêm khắc và quyết liệt vì lỗi lầm của chính mình. Nhưng tất cả đã quá muộn. Câu chuyện kết thúc một cách bi thảm!

Hành động rút gươm chém Mỵ Châu thể hiện lập trường kiên quyết đứng về phía chính nghĩa và lợi ích quốc gia của An Dương Vương đối với việc xử án, đồng thời cho thấy sự nhận thức muộn màng về lỗi lầm nghiêm trọng của mình. Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh của đất nước và dân tộc. Cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã trực tiếp làm tiêu tan cơ nghiệp và đẩy nước Âu Lạc vào thảm cảnh mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác trước kẻ thù đối với những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự mất nước của dân tộc.

Hình ảnh An Dương Vương tay cầm sừng tê giác bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thủy phủ là một yếu tố thần kỳ thể hiện tấm lòng bao dung và tình cảm của nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua anh hùng tài giỏi nên không muốn ông băng hà. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng bất tử thể hiện lòng ngưỡng mộ, thương tiếc của người xưa. Sai lầm của An Dương Vương là nguyên nhân dẫn đến sai lầm của Mỵ Châu. Mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy là một mối tình éo le, nó không phải là sản phẩm của tình yêu tự nhiên mà là sản phẩm của một âm mưu thâm độc trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.

Mị Châu đã sai lầm khi yêu mù quáng nên vô tình biến mình thành đồng phạm với giặc. Cô ấy ngây thơ và trung thực đến mức cả tin. Nàng dám giấu nỏ không cho vua cha và cho Trọng Thủy xem nỏ thần mà quên rằng đó là con của giặc. Từ đó, Mỵ Châu giúp Trọng Thủy đánh cắp bí quyết binh khí lợi hại của quốc gia, dẫn đến thảm cảnh đất nước rơi vào tay giặc. Trên đường chạy trốn, cô tiếp tục rắc lông ngỗng để chỉ đường cho quân thù truy sát cha mình. Hai hành động đó của Mỵ Châu là trọng tội. Nhiều người cho rằng những hành động đó là vô tình, nhưng suy cho cùng, Mị Châu vì quá tin tưởng và yêu thương Trọng Thủy nên đã mù quáng nghe theo lời chồng.

Triệu Đà, chúa đất Nam Hải đem quân sang cướp nước Âu Lạc nhưng thất bại vì An Dương Vương có nỏ thần. Biết không thể dùng vũ lực, hắn chuyển sang kế sách. Triệu Đà xin giảng hòa, cầu thân rồi cầu hôn con trai. (Ngày xưa, trong quan hệ ngoại giao, các nước thường dùng con tin hoặc cầu hôn để giữ hòa khí.) Đây là một âm mưu hết sức hiểm độc. Người giúp Triệu Đà phá nỏ thần và chiếm được nước Âu Lạc chính là Trọng Thủy. Trọng Thủy là một nhân vật đáng thương nhưng cũng đáng hận. Anh chấp nhận làm công cụ để thực hiện kế hoạch xâm lược của cha mình. Tuy là con rể của An Dương Vương nhưng thực chất Trọng Thủy lại là một gián điệp đắc lực được cài cắm trên đất Âu Lạc. Bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt, Trọng Thủy đã lừa được Mị Châu đổi thần, rồi nói dối là đến thăm cha để đưa quần thần về nước. Triệu Đà được kế, mừng rỡ, lại sai quân sang xâm lược Âu Lạc.

Trong khi Mỵ Châu ngây thơ tin chồng thì Trọng Thủy đã lừa dối nàng, lên đường đoạt lấy quần thần. Tuy nhiên, trong những ngày ở Loa Thành, sống bên người vợ xinh đẹp, ngoan ngoãn, Trọng Thủy đã có tình cảm chân thật với Mị Châu. Mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thủy, tham vọng đánh chiếm nước Âu Lạc và tham vọng tình yêu trọn vẹn với người đẹp cũng bắt đầu nảy sinh. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hòa được. Vì vậy, sau khi chiến thắng, lẽ ra Trọng Thủy được hưởng vinh quang thì lại đau khổ đến mức tự tử vì ân hận và thương tiếc Mị Châu. Trọng Thủy tự tử vì nhận ra không thể giải quyết được mâu thuẫn gay gắt trong con người mình. Cái chết của anh gợi lên trong lòng mọi người một chút tiếc thương, xót xa.

Mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy thất thường vì luôn bị âm mưu xâm lược của Triệu Đà chi phối. Vì vậy, cái kết bi thảm của tình yêu ấy thực sự có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy nồng nàn nhưng cũng đầy bi thương. Nhân dân ta không ca ngợi mà chỉ tiếc cho họ vì hạnh phúc của họ bị tan vỡ bởi chiến tranh. Mối tình oan trái ấy đã được đền bù bằng hình ảnh giếng ngọc. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là kết thúc có hậu của truyện cổ tích.

Người Việt Nam vốn giàu đạo đức, giàu lòng nhân ái nên giảm bớt tính bi kịch của câu chuyện bằng những hình ảnh đậm chất thần tiên: An Dương Vương được Rùa Vàng đưa xuống thủy cung; Lời thề Mỵ Châu tuân thủ nghiêm ngặt, máu nàng chảy xuống biển, loài hến ăn vào hóa thành ngọc trai; Ngọc Mỵ Châu nếu được rửa bằng nước giếng nơi Trọng Thủy ngâm mình thì sẽ sáng ngời.

3. Kết bài phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy ngắn gọn nhất:

Truyện An Dương Vương, Mỵ Châu – Trọng Thủy để lại ấn tượng cho nhiều thế hệ người Việt Nam bởi giá trị về mặt nội dung sâu sắc và mặt giá trị nghệ thuật ấn tượng. Qua câu chuyện, ta phần nào hình dung được bi kịch mất nước của dân tộc ta thời Âu Lạc và khắc sâu hơn bài học giữ nước mà tổ tiên ta đã đúc kết. Câu chuyện cũng nhắc nhở chúng ta về bạn bè và kẻ thù; mối quan hệ giữa nước và nhà… Những bài học lớn rút ra từ truyền thuyết này luôn nóng hổi mang ý nghĩa giáo dục trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại.

Chủ đề