Đánh giá giáo viên theo 88 năm 2024

Theo quy định tại Điều 26, 27, 28 Nghị định 56/2015/NĐ-CP (sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Nghị định 88/2017/NĐ-CP) đánh giá phân loại cán bộ công chức viên chức thì tiêu chí đánh giá phân loại viên chức như sau:

Tiêu chí phân loại đánh giá viên chức ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ

- Đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý:

+ Có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, hoàn thành 100% công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết, bảo đảm tiến độ chất lượng, hiệu quả; nghiêm túc chấp hành sự phân công công tác của người có thẩm quyền; có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

+ Các tiêu chí quy định tại điểm b, c và d khoản 1 Điều 25 Nghị định này.

- Đối với viên chức quản lý:

+ Các tiêu chí quy định tại Khoản 1 Điều này, Điểm b và c Khoản 2 Điều 25 Nghị định này;

+ Cơ quan, đơn vị được giao quản lý, điều hành hoàn thành 100% khối lượng công việc, bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả.

Tiêu chí phân loại đánh giá viên chức ở mức hoàn thành nhiệm vụ

- Đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý:

+ Có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, hoàn thành từ 70% đến dưới 100% công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết, trong đó có công việc còn chậm về tiến độ, hạn chế về chất lượng, hiệu quả; có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao;

+ Các tiêu chí quy định tại điểm b, c và d khoản 1 Điều 25 Nghị định này.

- Đối với viên chức quản lý:

+ Các tiêu chí quy định tại Khoản 1 Điều này;

+ Nghiêm túc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật;

+ Cơ quan, đơn vị được giao quản lý, điều hành hoàn thành từ 70% đến dưới 100% khối lượng công việc.

Tiêu chí phân loại đánh giá viên chức ở mức không hoàn thành nhiệm vụ

- Đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý:

+ Hoàn thành dưới 70% công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết;

+ Chưa nghiêm túc chấp hành sự phân công công tác của người có thẩm quyền; thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao;

+ Thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ không đạt yêu cầu;

+ Vi phạm quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ;

+ Vi phạm quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của viên chức, gây phiền hà, sách nhiễu với nhân dân đến mức phải xử lý kỷ luật;

+ Có hành vi chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết tại cơ quan, đơn vị;

+ Không có tinh thần phối hợp với đồng nghiệp, cơ quan, đơn vị có liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của đơn vị;

+ Vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ đến mức phải xử lý kỷ luật.

- Đối với viên chức quản lý:

+ Các tiêu chí quy định tại Khoản 1 Điều này;

+ Việc quản lý, điều hành thực hiện công việc hạn chế, không đạt hiệu quả, không đáp ứng yêu cầu công việc;

+ Để xảy ra các vụ vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý kỷ luật;

+ Cơ quan, đơn vị được giao quản lý, điều hành hoàn thành dưới 70% khối lượng công việc.

Như vậy, việc đánh giá, xếp hạng viên chức hoàn thành nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ chỉ dựa vào các tiêu chí theo quy định nêu trên, không căn cứ vào thời gian viên chức làm việc thực tế. Mặt khác, viên chức nghỉ chế độ ốm đau thuộc trường hợp nghỉ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội nên không thể đưa thời gian nghỉ chế độ vào để đánh giá viên chức không hoàn thành công việc, nhiệm vụ được giao.

Trong bài viết Việc xếp chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo Thông tư 20 quá phức tạp, chúng tôi đã phản ánh những khó khăn trong việc tập hợp nguồn minh chứng của giáo viên khi xét chuẩn nghề nghiệp hàng năm ở các nhà trường.

Chính từ sự rắc rối, phức tạp như vậy nên giáo viên họ cũng không thể nào tìm được nguồn minh chứng theo những hướng dẫn của Bộ.

Sự tồn tại của Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT cho đến hết năm học 2017-2018 đã thể hiện sự bất cập này. Và bắt đầu từ năm học này, giáo viên các trường phổ thông sẽ thực hiện Thông tư 20/2018-BGDĐT để xếp loại chuẩn nghề nghiệp cho mình.

Suy cho cùng, việc xếp loại, đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên cũng chẳng có gì mới và tất nhiên cũng thể không thay đổi được chất lượng dạy và học của người thầy và trò.

Đánh giá giáo viên theo 88 năm 2024
Việc yêu cầu phải tập hợp minh chứng rất vô bổ và mất thời gian cho giáo viên (Ảnh minh họa: TTXVN)

Sự thay thế Thông tư 20/2018-BGDĐT20 cho Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT trước đây cũng không phải là sự tiến bộ hay giúp cho giáo viên đỡ phần rắc rối trong việc thực hiện nhiệm vụ hàng năm.

Thực tế, trong gần 10 năm thực hiện Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT để đánh giá chuẩn giáo viên thì nó cũng chẳng phát huy được tác dụng gì mà gây nhiều phiền toái cho giáo viên.

Trước đây, theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT thì việc xếp loại chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông có 4 mức: "Xuất sắc", "khá", "trung bình" và "chưa đạt chuẩn- yếu".

Quy trình đánh giá, xếp loại theo 3 bước: Giáo viên tự đánh giá, tổ chuyên môn đánh giá, Hiệu trưởng đáng giá.

Bây giờ, Thông tư 20/2018- BGDĐT bắt đầu thực hiện từ năm học này thì việc xếp loại chuẩn nghề nghiệp giáo viên cũng là 4 mức độ: "Mức tốt", "mức khá", "mức đạt" và "mức chưa đạt".

Quy trình đánh giá chuẩn giáo viên cũng cơ bản theo 3 bước như trước đây cho dù một số từ ngữ, tên gọi có khác hơn một chút.

Chuẩn nghề nghiệp giáo viên là gì?

Trong Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Bộ Giáo dục thì chuẩn nghề nghiệp giáo viên được giải thích từ ngữ như sau:

1. Phẩm chất là tư tưởng, đạo đức, lối sống của giáo viên trong thực hiện nhiệm vụ, công viêc.

2. Năng lực là khả năng thực hiện công việc, nhiệm vụ của giáo viên

3. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông là hệ thống phẩm chất, năng lực mà giáo viên cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông…

Nếu được định nghĩa như Thông tư 20/2018-BGDĐT của Bộ thì nó cực kỳ đơn giản trong việc đánh giá, không cần phải tìm minh chứng làm gì.

Bởi, tựu chung lại mỗi giáo viên có 2 từ cốt lõi nhất là “phẩm chất” và “năng lực”.

"Phẩm chất" của người giáo viên là nhân hậu, bao dung, yêu thương học trò. Đối xử với đồng nghiệp trong trường hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau.

Những điều này không phải minh chứng bằng những tờ giấy mơ hồ ở đâu đâu mà chính là cách sống, cách thực hiện công việc ở nhà trường có hiệu quả.

Giáo viên đó không để lại điều tiếng gì xấu với đồng nghiệp, với nhà trường, được mọi người trân trọng, yêu mến là đương nhiên phải được xếp loại tốt. Bởi đó là "phẩm chất" của một nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy học trò.

Những giáo viên bị đơn thư, bị quở trách, góp ý về đạo đức, lối sống hàng ngày thì xếp loại ở mức thấp hơn.

"Năng lực" của giáo viên được hiểu là kiến thức, là khả năng truyền đạt của giáo viên trước công việc giảng dạy của mình.

Giáo viên dạy tốt, dạy học sinh hiểu bài, kết quả giảng dạy cao hơn các giáo viên trong trường, có các phiếu dự giờ của cấp trên, của đồng nghiệp xếp loại giỏi.

Giáo viên đó sẵn sàng chấp hành công việc đoàn thể giao như thực hiện tốt các công việc của mình, thực hiện tốt các tiết thao giảng chuyên đề, đi đầu trong đổi mới giáo dục thì họ phải được xếp loại tốt.

Những người khác, hoàn thành ở mức độ công việc thấp hơn thì xếp loại, đánh giá ở mức thấp hơn. Chỉ thế thôi là đủ, cần gì phải làm phức tạp vấn đề như hướng dẫn của Thông tư 20.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cứ nhìn cách xếp loại công chức, viên chức theo Nghị định 56 và Nghị định 88 sửa đổi của Chính phủ sẽ thấy nó đơn giản và bao hàm hơn rất nhiều Thông tư 20/2018-BGDĐT.

Trong khi, Hiệu trưởng là công chức, giáo viên là viên chức thì có cần phải xếp chuẩn nghề nghiệp nữa không?

Những tờ minh chứng vô nghĩa để làm gì?

Theo quy định và hướng dẫn của chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông thì: “Minh chứng là bằng chứng (tài liệu, tư liệu, hiện tượng, nhân chứng) được dẫn ra để xác nhận một cách khách quan mức độ đạt được của tiêu chí”.

Vậy, những tiêu chí như bằng cấp, chứng chỉ mà giáo viên đã nộp cho nhà trường từ khi được tuyển dụng và bổ sung hàng năm để làm gì mà bây giờ mỗi năm xếp chuẩn nghề nghiệp lại phải photo mấy loại giấy tờ này để nộp?

Những tiêu chí về chuyên môn như bản kế hoạch dạy học, biên bản họp tổ chuyên môn, họp Hội đồng sư phạm, phiếu dự giờ, kết quả học tập của học sinh có cần phải photo không khi các loại văn bản này giáo viên đã nộp hoặc nhà trường, tố chuyên môn đang lưu giữ?

Đó là bất cập khi những nguồn minh chứng đã có mà Bộ lại yêu cầu minh chứng cho hàng năm để xếp chuẩn nghề nghiệp.

Trong khi đó, có những nguồn minh chứng không thể nào tìm được đó là:

“Thư cảm ơn, khen ngợi của cha mẹ học sinh/ đồng nghiệp/ nhóm chuyên môn/ tổ chuyên môn/ ban giám hiệu/ các tổ chức cá nhân phản ánh tích cực về giáo viên có phẩm chất đạo đức mẫu mực..”.

Những loại minh chứng này thì giáo viên lấy ở đâu ra để làm bằng chứng cho các tiêu chí đã được quy định?

Chính vì bất cập như vậy nên giáo viên người ta cũng đánh bừa, đánh thí "dấu x" vào các ô tương ứng của phiếu tự đánh giá, xếp loại. Tổ chuyên môn cũng vậy mà Hiệu trưởng nhà trường cũng thế.

Giỏi lắm thì mỗi giáo viên tìm được được mỗi tiêu chí một vài minh chứng đã là quý lắm rồi.

Những loại giấy tờ vô bổ, chẳng có tác dụng gì đang làm khổ giáo viên ở cơ sở nhưng đó đã là quy định của Bộ nên bắt buộc người thầy phải thực hiện. Vì thế, những văn bản mà Bộ ban hành mới đây về việc giảm tải cho giáo viên phỏng có ích lợi gì?

Những tờ giấy vô bổ cứ được giáo viên bổ sung thêm trong hồ sơ lưu của nhà trường hàng năm có thay đổi được chất lượng giáo dục hay không, có nâng được trình độ, nghiệp vụ của người thầy hay không?

Hay chỉ khiến cho giáo viên phải tất bật làm những điều vô nghĩa khi bước vào những ngày gần kết thúc năm học với vô vàn công việc đang đợi chờ người thầy?