Chữ viết phổ biến của người ấn Độ thời phong kiến là gì

2. Ấn Độ thời phong kiến

*Vương triều Gupta: (TK IV – VI)

- Luyện kim rất phát triển, công cụ sắt sử dụng rộng rãi

- Nghề thủ công: dệt, chế tạo kim hoàn. Khắc trên ngà voi…

* Vương quốc Hồi giáo Đê li (XII – XVI)

- Chiếm ruộng đất.

- Cấm đoán đạo Hinđu, mâu thuẫn dân tộc căng thẳng.

* Vương triều Môgôn (TK XVI – giữa Thế kỉXIX).

Thực hiện các biện pháp để xoá bỏ sự kì thị tôn giáo, thủ tiêu đặc quyền Hồi giáo, khôi phục kinh tế và phát triển văn hoá.

Chữ viết Ấn Độ cổ đại

Chữ cổ nhất của Ấn Độ, được khắc trên các con dấu và được phát hiện tại lưu vực sông Ấn, đã có lịch sử từ hơn 2000 năm TCN. Chữ này mất đi cùng với nền văn hóa sông Ấn, không ai còn dùng, không ai còn biết đọc nữa.

Dân bản địa cũng như các bộ lạc nói ngôn ngữ Ấn – Âu đến từ giữa thiên kỉ II TCN, một thời gian dài không có chữ viết.

Khoảng 800 năm TCN, bắt đầu xuất hiện chữ viết được khắc trên hiện vật. Sớm nhất là chữ Kharosthi, có nguồn gốc từ chữ Aramaic ở Tây Á được dùng ở Iran và vùng Tây bắc Ấn Độ. Trên bán đảo Ấn Độ, dùng rộng rãi hơn chữ Brami, có nguồn gốc Semitic cũng ở Tây Á.

Ít lâu sau, có lẽ khoảng thế kỉ VII TCN, từ những chữ viết này, người ta cải biên thành mẫu tự Devanagari để ghi chép ngôn ngữ Ấn – Âu : chữ Phạn, (sanskrit) ra đời.

गातम नारी शापवश उपल देह धरि धीर।

चरण कमल रज चाहती कृपा करहु रघुबीर ॥

Từ sử thi Ramayana ghi lại bằng sanskrit, văn hào Tulsidas (thế kỉ XVI) phóng tác lại bằng tiếng Hindi, lấy nhan đề Ramcaritmanas (Hồn thiêng các hành động của Rama), đoạn chữ trên là một câu trích trong đó.

Nhưng các địa phương Bắc Ấn, nhất là vùng Magadha người ta ngày càng quen nói một thứ tiếng Ấn – Âu đã chuyển hóa, cải biên, trở thành thổ ngữ (Prâkrita: thổ ngữ). Khi Phật truyền giáo, Người nói với mọi người bằng Prâkrita này, để mọi người hiểu được, và người ta lại cải biên và sáng tạo một hệ thống mẫu tự để ghi chép Prâkrita. Đó là Pali.

So với Sanskrit, Pali đơn giản hơn về âm tiết, biến cách, cú pháp và đơn giản hơn cả về nét chữ. Chẳng hạn Kostha (Skr) : Kottha (Pali) : kho ; Suvarna (Skr) : suvanna (Pali) Vàng ; Dharma (Skr) : Dhamma (Pali) : Đạo Pháp. Pali được dùng để viết kinh Phật, nhưng cũng vì thế mà ít được bổ sung từ ngữ, ít cải tiến và kém phát triển so với Sanskrit.

Kharosthi và Brami vẫn được dùng mấy thế kỉ nữa, đặc biệt trong những trường hợp giao tiếp và giao dịch. Asôca cho dựng nhiều cột đá để ghi các chiến công của mình, rải rác hầu khắp bán đảo Ấn Độ. Các cột này được khắc bằng chữ viết thông dụng ở địa phương : ở vùng Tây Bắc, khắc chữ Kharosthi, vượt qua dãy Hindu Kush còn khắc cả chữ Hi Lạp, nhưng ở miền Bắc và miền Nam Ấn là chữ Brami. Rất nhiều con dấu và đồ trang sức đã được tìm thấy ở Ấn Độ và nước ngoài, khắc chữ Brami. Việc J.Prinsep giải mã được chữ Brami (1837) đã giúp đọc được các cột Asôca và rất nhiều chữ khắc rời nói trên. Tuy nhiên, chữ Kharosthi và Brami không có cơ hội phát triển vì không phải là ngôn ngữ và văn tự bản địa Ấn Độ.

Vì thế, còn lại chữ Sanskrit và tiếng sanskrit trở thành tiếng thông dụng chính thức ở Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN cho đến khoảng thế kỉ X CN, trước khi nó trở thành Apabhramsa cái cầu nối sanskrit với các ngôn ngữ tộc người hiện đại (Hindi, Bengali, Marathi, Panjabi…).

Người Ấn Độ đã có chữ viết riêng của mình từ rất sớm, phổ biến nhất là chữ gì ?

A. Chữ Nho

B.Chữ tượng hình

C.Chữ Phạn.

Đáp án chính xác

D. Chữ Hin-đu.

Xem lời giải

Lịch sử lớp 10

Video liên quan

Chủ đề