Cây kơ nia là cây gì

“Bóng cây Kơ nia” là bài hát nổi tiếng do nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc từ lời thơ Ngọc Anh. Có thể nói chính nhờ ca khúc của hai tác giả quê Đà Nẵng, Quảng Nam mà cây Kơ nia đã trở nên nổi tiếng trong cả nước, trở thành loài cây biểu tượng của Tây Nguyên.

Cây kơ nia là cây gì
Một cây Kơ nia cổ thụ dáng rất đẹp tại thôn Phú Hòa 1, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang.Ảnh: P.C.T

Một lần đọc Báo Đà Nẵng cuối tuần, tôi được biết cây Kơ nia có mọc ở Quảng Nam và Đà Nẵng và có tên địa phương là cây Cốc. Từ điển cây thuốc Việt Nam (bộ mới) ghi nhận cây Kơ nia còn gọi cây Cầy và có phân bố ở Đà Nẵng. Trong đợt điều tra thực địa vừa qua, đoàn điều tra cây thuốc thành phố Đà Nẵng đã chú ý tìm kiếm nhưng chưa thấy.

Lần theo một số thông tin do các vị bô lão cung cấp, sáng thứ bảy, ngày 10-9-2016 vừa qua, tôi đã đến Nghĩa trang liệt sĩ xã Hòa Phong (tại Gò Cốc, thôn Cẩm Toại Trung) và phát hiện một quần thể có 7 cây Kơ nia cổ thụ tại đây. Đáng chú ý, có một cây đã bị đốn hạ vì có nguy cơ ngã đổ sau một trận hỏa hoạn làm cháy bộng cây.

Trên đường về nhà, niềm vui nhân đôi khi tôi tiếp tục phát hiện 2 cây Kơ nia cổ thụ khác mọc đơn lẻ tại ngôi miếu âm linh sau nhà sinh hoạt cộng đồng thôn Phú Hòa 1, xã Hòa Nhơn và gần ngôi mộ tiền hiền làng Cẩm Hòa - Cẩm Nê thuộc phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ.

Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi, Cầy hay Kơ nia có tên khoa học Irvingia malayana Oliv. ex Benn., thuộc họ Cầy - Irvingiaceae.

Đây là loài cây gỗ lớn thường xanh, cao 15-30m; gốc thường có khía. Lá đơn, mọc chụm ở đầu cành, mặt trên xanh bóng, mặt dưới xanh nhạt, phiến lá hình trái xoan dài 9-11cm, rộng 4-5cm, gân bên 11 đôi, khi non lá có màu tím nhạt; cuống dài 1cm; lá kèm hình dùi dài 2-3,5cm. Cụm hoa chùm, mọc ở nách lá. Hoa nhỏ màu trắng; 4-5 cánh hoa; nhị 10; đĩa mật bao quanh nhuỵ; bầu 2 ô. Quả hình trái xoan dài 3-4cm, rộng 2,7cm, chứa 1 hạt. Khi chín, quả có màu vàng nhạt. Cây mọc rải rác trong rừng thường xanh, rừng thứ sinh. Khi bị chặt cây nảy chồi mạnh. Ra hoa tháng 5-6, có quả chín tháng 9-11. Kơ nia có phân bố ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, An Giang, Kiên Giang. Ngoài ra còn có ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia.

Để làm thuốc, người ta thu hái vỏ cây và vỏ rễ quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Hạt có chất dầu màu trắng hay vàng, mùi dễ chịu, có thể ăn được, thơm bùi không khác hạt điều đã qua chế biến. Ở xứ Quảng có phương ngữ “Ăn cốc cộc tay”, vì để ăn được nhân hạt này, phải dùng gạch đá hay dao búa đập vỏ hạt rất cứng, nhiều khi sơ ý dập cả ngón tay.

Theo Đông y, Kơ nia có vị chua thơm, tính mát, không độc; có tác dụng tiêu phù, trừ đờm, trục u bướu và tiêu thức ăn. Dùng làm thuốc chữa no hơi đầy bụng, trừ sốt rét rừng, ngã nước. Ở Campuchia, vỏ cây được sử dụng trong toa thuốc bổ, dùng cho phụ nữ mới sinh đẻ uống cho khỏe. Dầu hạt dùng làm xà phòng và thắp đèn.

Xin được nói thêm, cây Kơ nia hiện nay đã có tên trong Sách Đỏ bởi ngay tại Tây Nguyên thì loài cây này cũng đã trở thành của hiếm. Nhiều người ở Pleiku mấy chục năm mà chưa một lần thấy “bóng cây Kơ nia” mặc dù họ vẫn thường nghe bài hát này. Một thành phố Buôn Ma Thuột to lớn, thủ phủ Tây Nguyên mà cũng chỉ còn sót lại mỗi một cây ở cạnh Nhà Văn hóa Trung tâm! Ở Kon Tum phải đi trên 30 cây số về làng Kon Hring xã Diên , huyện Đăk Tô mới được chiêm ngưỡng một cây Kơ nia thuộc hạng “già làng” hùng vĩ!

Bởi vậy, với những cá thể và quần thể cây Kơ nia chúng tôi vừa phát hiện, chỉ ở cách trung tâm thành phố Đà Nẵng chưa đầy 20 cây số, nếu biết đầu tư và khai thác, chắc chắn sẽ trở thành những địa chỉ du lịch sinh thái - văn hóa và về nguồn rất lý tưởng để thu hút du khách gần xa (có thể đặt tên tuyến du lịch “Dưới bóng cây Kơ nia”).

Nhưng điều quan trọng trước mắt là phải gấp rút có kế hoạch thống kê, bảo vệ, quản lý nghiêm ngặt, có thể lập hồ sơ công nhận cây di sản đối với loài cây quý hiếm này, tránh để thất thoát như một trường hợp đã nêu ở trên.

(VACNE) - Cây Kơ nia, còn có tên Cầy hay Cốc (Quảng Nam – Đà Nẵng), tên khoa học là Irvingia malayana Oliv. ex Benn., họ Kơ nia (Irvingiaceae), là một trong những hình ảnh độc đáo của Tây Nguyên, đã trở nên thân thuộc trong tiềm thức của mỗi người dân ở vùng đất này.

Ở ngay trung tâm thành phố Kon Tum có một “làng trong phố” của đồng bào Ba Na mang tên “Plei Tơ Nghia” (gọi chệch tên “làng Kơ nia”), vì xưa kia quanh làng có rất nhiều cây này mọc. Ở nước ta, đã có trường hợp lấy tên cây làm địa danh, như cây thuốc Hoàng liên được dùng đặt tên cho cả dãy núi lớn, dãy Hoàng Liên Sơn (tỉnh Lào Cai), hoặc cây Củ chi (Mã tiền) được đặt tên cho vùng đất Củ Chi, một huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh.

Tên Kơ nia khá nổi tiếng, đã thành tên ca khúc “Bóng cây Kơ nia” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (thơ Ngọc Anh): “Buổi sáng em lên rẫy, thấy bóng cây kơ nia; Bóng ngả che ngực em, về nhớ anh, không ngủ,…”. Nhiều người đã biểu diễn thành công bài hát này, trong đó có ca sĩ Măng Thị Hội.

Kơ nia là cây gỗ lớn, thường xanh, cao 15-30m hay hơn; đường kính thân cây trưởng thành khoảng 40-60cm hay hơn, gốc thường có khía dọc. Vỏ thân dày đến 6cm, màu nâu hồng, bong thành mảng nhỏ, có sạn màu vàng. Cành non màu nâu, nhiều bì khổng. Tán cây hình trứng, rậm rạp, màu xanh thẫm. Lá đơn, mọc tập trung ở đầu cành, mặt trên màu xanh bóng, phiến lá hình trái xoan hẹp, dài 9-11cm, rộng 4-5cm, gân bên 10-11 đôi, khi non lá có màu tím nhạt; cuống lá dài 1-1,2cm. Lá kèm hình dùi, dài 2-3,5cm. Cụm hoa chùm, mọc ở nách lá. Hoa nhỏ, màu trắng, cánh hoa 4-5; nhị 10. Nhụy có đĩa mật bao quanh; bầu 2 ô. Quả hình trái xoan, dài 3-4cm, rộng 2,5-2,7cm, chứa 1 hạt, khi chín có màu vàng nhạt, vị ngọt, ăn được. Nhân hạt cũng ăn được, mùi thơm và bùi như hạt Điều đã qua chế biến. Mùa hoa tháng 5-6, quả tháng 9-11. Khi nhỏ, cây ưa bóng và chỉ tái sinh bằng chồi và hạt dưới tán rừng.

Cây kơ nia là cây gì

Hình 1: Cây Kơ nia. Nguồn Internet

Cây kơ nia là cây gì

Hình 2: Quả Kơ nia. Nguồn Internet

Cây Kơ nia có tán rộng, tròn như một chiếc nấm khổng lồ và thường đứng đơn lẻ, rất dễ nhận biết. Tán cây che nắng, tạo bóng mát cho bà con lao động trên nương rẫy sau những giờ làm việc mệt nhọc.

Cây Kơ nia có nguồn gốc ở Châu Phi và phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á, như Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Ở Việt Nam, cây này mọc hoang trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh, mưa mùa ẩm, hay rừng cây nửa rụng lá, ít gặp trong rừng thưa; phân bố tập trung quanh khu vực Tây Nguyên (nhiều nhất là vùng Sa Thầy -Kon Tum và Lăk, Buôn Đôn -Đăk Lăk). Nó cũng phân bố rải rác ở một số tỉnh Nam Bộ, ra đến tận các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Đảo.

Du khách đến Tây Nguyên muốn xem cây Kơ nia có thể đến nhà Văn hoá ở trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk), cách Ngã Sáu Ban Mê vài trăm mét. Ở đó, có một cây cổ thụ nằm trong khuôn viên sân sau. Một số cây Kơ nia đã được mang từ Tây Nguyên ra trồng ở Hà Nội (khu vực Lăng và nhà sàn của Bác Hồ và khu di tích K84).

Kơ nia cũng là một loại cây có dược tính và được dùng làm thuốc. Người ta thu hái vỏ cây và vỏ rễ, rửa sạch, thái nhỏ, dùng tươi hay phơi khô. Hạt có chất dầu có thể ăn được, mùi thơm dễ chịu.

Thành phần hóa học: Theo tài liệu nước ngoài, phân đoạn ethyl acetat chiết xuất từ vỏ thân Kơ nia đã phân lập được acid betulinic. Chất này có tác dụng gây độc tế bào và chống lại dòng tế bào HeLa (được dùng trong nghiên cứu ung thư). Nhân hạt Kơ nia chứa 7,5% nước và 70% dầu màu trắng hay vàng. Dầu chứa các axit béo bão hòa, chứa ít α-tocopherol hơn so với γ-tocopherol và hợp chất sterol tương tự như các loại dầu thực vật khác, dùng làm xà phòng và thắp đèn.

Gỗ cây Kơ nia chứa 8 hợp chất đã biết, trong đó có aldehyd caffeic, ferulaldehyd, n-hexacosyl ferulat, 7β-hydroxy-β-sitosterol, β-sitosterol-β-D-glucosid, glutinol, axit oleanoic, và 2 chất mới là neolignan và phenylpropanoid.

Tính vị, tác dụng: Theo Đông y, Kơ nia có vị chua thơm, tính mát, không độc; có tác dụng tiêu phù, trừ đờm, trục u bướu và tiêu thức ăn. Nước chiết lá Kơ nia trong cồn có tác dụng kháng ký sinh trùng Plasmodium falciparum gây bệnh sốt rét. Người Tây Nguyên cũng biết dùng vỏ cây Kơ nia làm thuốc chữa sốt rét rừng và đầy bụng. Ở Campuchia, vỏ cây Kơ nia được sử dụng trong toa thuốc bổ dùng cho sản phụ uống cho khỏe. Người dân tộc dùng vỏ thân, vỏ rễ cây rửa sạch thái nhỏ, nấu nước uống.

Gỗ Kơ nia màu vàng nhạt, khi khô rất cứng. Gỗ này dễ bị mối mọt và cong vênh nên ít được sử dụng trong xây dựng. Trước đây, ở Quảng Nam người ta hay dùng loại gỗ này để làm chày cối và để đốt than hầm, cho loại than rất chắc và đượm.

Cây kơ nia còn gọi là cây gì?

Kơ nia (k'nia), còn có tên là cây cầy, cây cốc hay cốc [1], là tên địa phương của một loài thực vật có tên khoa học là Irvingia malayana thuộc chi Irvingia có nguồn gốc ở châu Phi và Đông Nam Á.

Cây kơ nia tiếng Anh là gì?

(VACNE) - Cây Kơ nia, còn có tên Cầy hay Cốc (Quảng Nam – Đà Nẵng), tên khoa học là Irvingia malayana Oliv. ex Benn., họ Kơ nia (Irvingiaceae), là một trong những hình ảnh độc đáo của Tây Nguyên, đã trở nên thân thuộc trong tiềm thức của mỗi người dân ở vùng đất này.

Hát kơ nia ăn có tác dụng gì?

Hạt Konia giúp tăng cường trí nhớ nếu sử dụng thường xuyên và đều đặn trong thời gian dài. Hạt còn có khả năng chống oxy hóa và chống viêm hiệu quả, rất tốt cho trí não. Ngoài ra, nguồn chất béo lành mạnh, chất xơ, protein trong hạt có khả năng cải thiện trí não và làm giảm cholesterol xấu.

Hát Knia là gì?

Hạt kơ nia khá to gần bằng hạt hạnh nhân, được bao bọc bởi một lớp lụa mỏng màu nâu, khi bóc lớp vỏ này thì phần nhân trắng sẽ lộ ra. Vị của hạt khá đặc biệt có mùi vị của hạt điều béo ngậy, mùi thơm đậm hương rừng gió núi vô cùng lành tính.