Cách xử lý bã bia làm thức ăn cho gà

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY THẾ THỨC ĂN
HỖN HỢP BẰNG BÃ BIA TRONG KHẨU PHẦN
LÊN TĂNG TRỌNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA GÀ SAO NUÔI THNT

Cần thơ, ngày…...tháng……năm 2011
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

PGS.TS NGUYỄN THN KIM ĐÔNG

Cần thơ, ngày......tháng......năm 2011
DUYỆT BỘ MÔN

Trưởng Bộ Môn

Cần thơ, ngày… tháng…. năm 2011
DUYỆT CỦA KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

…………………………......................

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

LÊ THN DIỄM TRANG

ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY THẾ THỨC ĂN

HỖN HỢP BẰNG BÃ BIA TRONG KHẨU PHẦN
LÊN TĂNG TRỌNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA GÀ SAO NUÔI THNT

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: CHĂN NUÔI THÚ Y

Cần Thơ, 05/2011

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: CHĂN NUÔI THÚ Y

Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY THẾ THỨC ĂN
HỖN HỢP BẰNG BÃ BIA TRONG KHẨU PHẦN
LÊN TĂNG TRỌNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA GÀ SAO NUÔI THNT

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Đông

Lê Thị Diễm Trang
MSSV: 3077120

Lớp: CN K33

Cần Thơ, 05/2011

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Ban lãnh đạo khoa Nông Nghiệp & SHƯD và các thầy cô của Bộ Môn Chăn
Nuôi.
Tôi tên: Lê Thị Diễm Trang, MSSV: 3077120 là sinh viên Chăn Nuôi, khóa 33, niên học:
2007 – 2011. Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân, đồng
thời các kết quả thu được trong suốt quá trình thí nghiệm hoàn toàn có thật và chưa được
công bố trong các luận văn trước đây.

Giáo viên hướng dẫn

Người thực hiện

NGUYỄN THN KIM ĐÔNG

LÊ THN DIỄM TRANG

LỜI CẢM ƠN
Trong những năm học đại học tôi đã gặp không ít khó khăn và trở ngại, nhưng được sự
giúp đỡ của cha mẹ, quí thầy cô, các anh chị và các bạn đã giúp tôi vượt qua mọi khó
khăn và hoàn thành tốt khóa học.
Trước tiên, con xin gửi lời cảm ơn đến cha mẹ, người đã sinh thành, dưỡng dục cho
con nên người. Tiếp theo, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô của Bộ môn Chăn
Nuôi, khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ và cô
Nguyễn Thị Hồng Nhân, cố vấn học tập lớp Chăn Nuôi K33, cô đã tận tình giúp đỡ em

và các bạn trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô
PGS.TS Nguyễn Thị Kim Đông, cô đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian làm
đề tài tốt nghiệp. Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn đến ThS. Trương Thanh Trung, KS.
Đặng Hùng Cường, KS. Nguyễn Văn Trường đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn tập thể các bạn sinh viên lớp Chăn Nuôi khóa 33, các bạn
sinh viên làm việc tại trại chăn nuôi và phòng thí nghiệm E205. Đặc biệt là bạn
Nguyễn Văn Hoan, Lê Ngọc Trâm Anh, Đoàn Mỹ Hiền đã giúp đỡ và động viên tôi
trong suốt quá trình học tập và làm đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn!

DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

Ash

Khoáng tổng số

CF

Crude fiber (Xơ thô)

CP

Crude protein (Protein thô)

DM

Dry matter (Vật chất khô)

EE

Ether extract (Béo thô)

FCR

Feed conversion ratio (Hệ số chuyển hóa thức ăn)

KLCT

Khối lượng cơ thể

TAHH 100

Thức ăn hỗn hợp 100%

TAHH 80

Có 80% thức ăn hỗn hợp trong khNu phần bã bia ăn tự do

TAHH 60

Có 60% thức ăn hỗn hợp trong khNu phần bã bia ăn tự do

TAHH 40

Có 40% thức ăn hỗn hợp trong khNu phần bã bia ăn tự do

TAHH 20

Có 20% thức ăn hỗn hợp trong khNu phần bã bia ăn tự do

ME

Metabolisable ennergy (Năng lượng trao đổi)

NDF

Neutral detergent fiber (Xơ trung tính)

OM

Vật chất hữu cơ

BB

Bã bia

DANH SÁCH BẢNG

Bảng

Tên bảng

Trang

1

Nhu cầu dinh dưỡng của gà thương phNm (tiêu chuNn Việt Nam 2265,
1994)

10

2

Trọng lượng và nhu cầu năng lượng cho gà thịt

10

3

Dữ liệu đã công bố về acid amin cho gà thịt

11

4

Nhu cầu chất khoáng tính trong 1 kg thức ăn hỗn hợp của gia cầm

12

5

Thành phần dinh dưỡng của bã bia

15

6

Công thức phối trộn của thức ăn hỗn hợp

24

7

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp dùng
trong thí nghiệm nuôi dưỡng (%DM)

24

8

Lịch chủng ngừa vaccine cho đàn gà thí nghiệm

25

9
10
11
12

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn dùng trong thí
nghiệm (%DM)
Lượng thức ăn và dưỡng chất tiêu thụ của gà Sao trong thí nghiệm
(g/con/ngày)
Tăng trọng, hệ số chuyển hóa thức ăn, tỷ lệ nuôi sống của gà thí
nghiệm

Hiệu quả kinh tế nuôi gà Sao qua các khNu phần khác nhau của thí
nghiệm

27
28
32
36

DANH SÁCH HÌNH
Hình

Tên hình

Trang

1

Gà Sao tăng trưởng

3

2

Gà Sao một ngày tuổi

3

3

Hệ tiêu hóa của gà

7

4

Bã bia

16

5

Gà Sao lúc 4 tuần tuổi

22

6

Gà Sao lúc 14 tuần tuổi

22

7

Chuồng gà thí nghiệm

23

8

Thức ăn hỗn hợp

23

DANH SÁCH BIỂU ĐỒ
Biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

1

Lượng bã bia và thức ăn hỗn hợp ăn vào (gDM/con/ngày) của
gà qua các nghiệm thức

29

2

Lượng DM, CP, NDF ăn vào (g/con/ngày) của gà qua các
nghiệm thức

31

3

Mối quan hệ giữa bã bia ăn vào và tăng trọng của gà thí nghiệm

33

4

Mối quan hệ giữa NDF ăn vào và tăng trọng của gà thí nghiệm

34

5

Trọng lượng cuối và tăng trọng của gà qua các nghiệm thức

35

6

Hiệu quả kinh tế của gà Sao qua các khNu phần khác nhau của
thí nghiệm

37

TÓM LƯỢC
Để đánh giá sự thích nghi, khả năng tăng trưởng của gà Sao cải tiến trong điều kiện
chăn nuôi bằng cách tận dụng các phụ phNm chế biến, chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh
hưởng của sự thay thế thức ăn hỗn hợp bằng bã bia trong kh u phần lên tăng trọng và
hiệu quả kinh tế của gà Sao nuôi thịt”.
Thí nghiệm được thực hiện tại nông hộ số 447C/18, khu vực Bình An, phường Long
Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Chúng tôi sử dụng bã bia trong khNu phần
để thay thế thức ăn hỗn hợp ở các mức độ khác nhau cho tất cả các nghiệm thức.

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với năm nghiệm thức và ba lần
lặp lại, mỗi đơn vị thí nghiệm gồm có 10 con.
-

Nghiệm thức TAHH 100 (nghiệm thức đối chứng): 100% thức ăn hỗn hợp.

-

Nghiệm thức TAHH 80: 80% Thức ăn hỗn hợp + Bã bia ăn tự do.

-

Nghiệm thức TAHH 60: 60% Thức ăn hỗn hợp + Bã bia ăn tự do.

-

Nghiệm thức TAHH 40: 40% Thức ăn hỗn hợp + Bã bia ăn tự do.

-

Nghiệm thức TAHH 20: 20% Thức ăn hỗn hợp + Bã bia ăn tự do.

Qua thời gian thí nghiệm chúng tôi ghi nhận được kết quả như sau:
Tăng trọng và trọng lượng cuối ở mức độ thay thế 40% thức ăn hỗn hợp bằng bã bia
cho kết quả tương đương với nghiệm thức 100% thức ăn hỗn hợp. Tăng trọng và trọng
lượng cuối thấp hơn khi thay thế 80% thức ăn hỗn hợp bằng bã bia, (P<0,05). Lượng
bã bia ăn vào tăng dần khi giảm mức độ thức ăn hỗn hợp trong khNu phần (P<0,05).
Tổng DM và CP ăn vào không có sự biến động nhiều giữa các nghiệm thức (P>0,05).
Có thể kết luận rằng bã bia có thể thay thế đến mức 80% thức ăn hỗn hợp trong khNu
phần nuôi gà Sao mang lại hiệu quả kinh tế.

Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số của toàn cầu hiện nay trên 6,7 tỷ người, dự báo mỗi năm dân số thế giới tăng
0,7 – 0,8 triệu (Theo Viện khoa học nông nghiệp Việt nam, www fcri.com.vn). Do đó
nhu cầu về lương thực thực phNm là một trong những vấn đề nóng bỏng đang được thế
giới quan tâm. Để giải quyết vấn đề này con người ngoài việc hạ tỷ lệ tăng dân số còn
phải cần đNy mạnh khả năng sản xuất lương thực thực phNm để đáp ứng đủ nhu cầu
tiêu thụ to lớn hiện tại. Do vậy nhu cầu về mặt hàng thịt nói chung và thịt gà nói riêng
trên thị trường trong nước và thế giới ngày càng đòi hỏi cao cả về số lượng lẫn chất
lượng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh ở gia súc và gia cầm
diễn ra ngày càng phức tạp như dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng, heo tai xanh
hay cúm heo… Cho nên việc tìm ra mô hình chăn nuôi mới để thay thế đang được
quan tâm chú ý. Ở Việt Nam, gần đây gà Sao đã được chuyển giao nuôi rộng rãi ở
nhiều địa phương, nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã và đang mang lại
hiệu quả kinh tế rất cao cho người chăn nuôi (Nguyễn Văn Bắc, 2008)….Gà Sao có tỷ
lệ thân thịt cao, giàu protit, hương vị thơm ngon nên hiện nay trên thế giới, các nước
nuôi càng nhiều, để làm món ăn đặc sản cao cấp. Đặc biệt gà Sao có nhiều ưu điểm
như: sức đề kháng cao, dễ nuôi, thích nghi với nhiều vùng sinh thái, có thể nuôi nhốt
hoặc thả vườn (Phùng Đức Tiến et al., 2006). Bên cạnh những lợi thế kể trên thì nguồn
thức ăn cũng là một vấn đề cần được giải quyết vì trong chăn nuôi người ta thường sử
dụng thức ăn hỗn hợp có nguồn dinh dưỡng ổn định nhưng ngược lại giá thành của loại
thức ăn này tương đối cao không mang lại lợi nhuận cho người chăn nuôi. Để khắc
phục tình trạng này điều quan trọng là phải có nguồn thức ăn ổn định và giá thành thấp
nguồn thức ăn này có thể là các phụ phNm chế biến như: Bã đậu nành, bã bia, hèm
rượu,…Với việc sử dụng bã bia để thay thế thức ăn hỗn hợp ở các mức độ khác nhau
trong khNu phần chăn nuôi gà Sao có triển vọng tốt vì bã bia có giá trị dinh dưỡng cao
và giá thành thấp. Được sự chấp thuận của Bộ môn chăn nuôi chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài “ Ảnh hưởng của sự thay thế thức ăn hỗn hợp bằng bã bia trong kh u phần
lên tăng trọng và hiệu quả kinh tế của gà Sao nuôi thịt” thí nghiệm đuợc thực hiện

theo nguyên tắc thay thế dần thức ăn hỗn hợp bằng bã bia nhằm giảm chi phí thức ăn
hỗn hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.
Mục đích của đề tài: Xác định mức độ tối ưu của bã bia trong khNu phần nuôi gà sao
tăng trưởng để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Có thể khuyến cáo cho người dân sử dụng nguồn phụ phNm bã bia để nuôi gà Sao
nhằm hạ giá thành chăn nuôi.

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI GÀ SAO TRÊN THẾ GIỚI
Gà Sao có từ lâu đời và được con người sử dụng trong suốt hàng nghìn năm. Người Hy
Lạp nuôi các giống đã thuần hóa từ 400 năm trước Công nguyên. Thịt và trứng gà Sao
được người La Mã xếp vào loại đặc sản.
Gà Sao được đưa vào Bắc và Nam Mỹ, khoảng 16 năm sau khi Christophe Colomb lần
đầu tiên đỏ bộ lên Châu Mỹ, do những người định cư đầu tiên mang đến. Gà Sao được
nuôi trên những tàu của Tây Ban Nha chở nô lệ Châu Phi sang các đảo vùng biển
Caribe. Gà Sao thích nghi nhanh và tình trạng này được củng cố tốt đến nỗi nhiều
người cho rằng đó là gà bản địa. Cuối năm 1600 chúng được nhập vào Trung Quốc. Ở
đây gà Sao được nuôi và sinh sản tốt đến nỗi hiện nay một số người Ấn Độ cho rằng gà
Sao có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chúng là giống gia cầm sinh lợi khá phổ biến. Trong
những năm 1920 và 1930 người Italia đã tiên s hành những biện pháp nhằm tăng khả
năng sinh đẻ cho gà Sao, từ đó đã tạo cơ sở cho ngành thương mại Châu Âu. (Phùng
Đức Tiến et al., 2006).
Hiện nay gà Sao đã được thuần hóa và nuôi ở nhiều nơi trên thế giới. Ở các nước như
Pháp, Bỉ, Canada, Úc và Mỹ gà Sao được sản xuất thương mại trên quy mô lớn
(Robinson, 2000; Embury, 2001 và Andrews, 2009), trong khi ở hầu hết các nước châu
Phi trong đó bao gồm Nigeria, Malawi và Zimbabwe chúng chỉ được nuôi với quy mô
nông hộ nhỏ (Nwagu et al., 1995; Dondofema, 2000; Ligomela, 2000; Smith, 2000 và
Saina, 2001).
2.2. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI GÀ SAO TRONG NƯỚC

Ở nước ta gà Sao xuất hiện từ thế kỉ thứ 19 do thực dân Pháp nhập vào nuôi làm cảnh ở
nhiều vùng như Đà Lạt và một số tỉnh Nam Bộ. Do có ngoại hình rất đẹp, nên mục
đích nuôi gà Sao như một loại chim cảnh, chỉ rất ít người nuôi với mục đích lấy trứng.
Nhưng giá trị kinh tế thông qua các sản phNm thịt, trứng mà gà Sao đem lại là rất lớn,
điều này đã được các nước chứng minh.
Mặc dù gà Sao đã được nuôi ở Việt Nam nhưng số lượng còn quá ít ỏi, tản mạn nên
chúng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, vì vậy mà không thấy được giá trị
kinh tế của việc chăn nuôi gà Sao. (Phùng Đức Tiến et al., 2006)
Hiện nay, gà Sao đã được Viện Chăn nuôi chuyển giao nuôi rộng rãi ở nhiều địa
phương, nhất là ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang mang lại hiệu quả
kinh tế rất cao cho người chăn nuôi (Nguyễn Văn Bắc, 2008).

2.3. ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH
Cả 3 dòng gà Sao đều có ngoại hình đồng nhất. Ở 1 ngày tuổi gà Sao có bộ lông
màu cánh sẻ, có những đường kẻ sọc chạy dài từ đầu đến cuối thân. Mỏ và chân
màu hồng, chân có 4 ngón và có 2 hàng vảy.
Giai đoạn trưởng thành gà Sao có bộ lông màu xám đen, trên phiến lông điểm nhiều
những nốt chấm trắng tròn nhỏ. Thân hình thoi, lưng hơi gù, đuôi cúp. Đầu không
có mào mà thay vào đó là mấu sừng, mấu sừng này tăng sinh qua các tuần tuổi, ở
giai đoạn trưởng thành, mấu sừng cao khoảng 1,5-2cm. Mào tích của gà Sao màu
trắng hồng và có 2 loại: một loại hình lá dẹt áp sát vào cổ, còn một loại hình lá hoa
đá rũ xuống. Da mặt và cổ gà Sao không có lông, lớp da trần này có màu xanh da
trời, dưới cổ có yếm thịt mỏng. Chân khô, đặc biệt con trống không có cựa.

Hình 1: Gà Sao trưởng thành

Hình 2: Gà Sao 1 ngày tuổi

Gà Sao có bộ lông màu xám đen điểm những đốm tròn nhỏ màu trắng. Đầu không có

lông và mào nhưng có mũ sừng nên trông chúng giống loài kền kền. Dưới cổ có yếm
thịt màu đỏ. Lông đuôi ngắn và thường dốc xuống. Gà Sao con có ngoại hình giống
chim cút con, bộ lông chúng có những sọc màu nâu đỏ chạy dài từ đầu đến cuối thân
(Pinoyfarmer, 2010). Gà Sao Hungary có 3 dòng (dòng lớn, trung bình và dòng nhỏ)
đều có ngoại hình đồng nhất. Ở 1 ngày tuổi gà Sao có bộ lông màu cánh sẻ, có những
đường kẻ sọc chạy dài từ đầu đến cuối thân. Mỏ và chân màu hồng, chân có 4 ngón và
có 2 hàng vảy. Giai đoạn trưởng thành gà Sao có bộ lông màu xám đen, trên phiến lông
điểm nhiều những nốt chấm trắng tròn nhỏ. Thân hình thoi, lưng hơi gù, đuôi cúp. Đầu
không có mào mà thay vào đó là mấu sừng, mấu sừng này tăng sinh qua các tuần tuổi,
ở giai đoạn trưởng thành, mấu sừng cao khoảng 1,5 – 2 cm. Mào tích của gà Sao màu
trắng hồng và có 2 loại là hình lá dẹt áp sát vào cổ và hình lá hoa đá rủ xuống. Da mặt

và cổ gà Sao không có lông, lớp da trần này có màu xanh da trời, dưới cổ có yếm thịt
mỏng. Chân khô, đặc biệt con trống không có cựa (Phùng Đức Tiến et al., 2006). Gà
Sao có rất nhiều màu như xám ngọc trai, tím hoàng gia, tím, đá, đồng, xanh, san hô,
chocolate, trắng, da bò và xám ngọc trai (Andrews, 2009).
2.3.1. Ưu điểm của gà Sao
Gà Sao có nhiều ưu điểm như: sức đề kháng cao, dễ nuôi, thích ngi với nhiều vùng sinh
thái, có thể nuôi nhốt hoặc thả vườn. Đặc biệt gà Sao không mắc các bệnh như: Marek,
Gumboro, Leucosis, do vậy mà gà Sao không phải tiêm Marek, không phải nhỏ
Gumboro. Những bệnh mà trong giai đoạn sinh sản các giống gà khác thường hay mắc
như: Mycoplasma, Sallmonella thì ở gà Sao chưa thấy. Trong dịch cúm gia cầm mấy
năm vừa qua chưa thấy xuất hiện trên gà Sao. Vì vậy nuôi gà Sao hiếm khi phải dùng
kháng sinh. Đây là một trong những đặc điểm quý của gà Sao. Sắp tới, gà Sao sẽ là một
trong những con giống tốt đóng góp cho ngành chăn nuôi Việt Nam phát triển bền
vững, đa dạng và phong phú. (Phùng Đức Tiến et al., 2006)
2.3.2. Phân biệt trống mái
Việc phân biệt trống mái đối với gà Sao rất khó khăn. Ở 1 ngày tuổi phân biệt trống
mái qua lỗ huyệt không chính xác như các giống gà bình thường. Đến giai đoạn

trưởng thành con trống và con mái cũng hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, người ta
cũng phân biệt được giới tính của gà Sao căn cứ vào sự khác nhau trong tiếng kêu
của từng cá thể. Con mái kêu 2 tiếng còn con trống kêu 1 tiếng, nhưng khi hoảng
loạn hay vì một lý do nào đó thì cả con trống và con mái đều kêu 1 tiếng nhưng
không bao giờ con trống kêu được 2 tiếng như con mái. Ta có thể nghe thấy tiếng
kêu của gà khi được 6 tuần tuổi. Ngoài ra sự phân biệt trống mái còn căn cứ mũ
sừng, mào tích, nhưng để chính xác khi chọn giống người ta phân biệt qua lỗ huyệt
khi gà đến giai đoạn trưởng thành.
2.3.3. Tập tính của gà Sao
Trong hoang dã gà Sao tìm kiếm thức ăn trên mặt đất, chủ yếu là côn trùng và
những mNu thực vật. Thông thường chúng di chuyển theo đàn khoảng 20 con. Về
mùa đông, chúng sống từng đôi trống mái trong tổ trước khi nhập đàn vào những
tháng ấm năm sau. Gà Sao mái có thể đẻ 20-30 trứng và làm ổ đẻ trên mặt đất, sau
đó tự ấp trứng. Gà Sao mái nuôi con không giỏi và thường bỏ lạc đàn con khi dẫn
con đi vào những đám cỏ cao. Vì vậy trong tự nhiên, gà Sao mẹ thường đánh mất
75% đàn con của nó.
Trong chăn nuôi tập trung, gà Sao vẫn còn giữ lại một số bản năng hoang dã. Chúng

nhút nhát, dễ sợ hãi, hay cảnh giác và bay giỏi như chim, khi bay luôn phát ra tiếng
kêu khác biệt. Chúng sống ồn ào và hiếm khi ngừng tiếng kêu.
Gà Sao có tính bầy đàn cao và rất nhạy cảm với những tiếng động như: mưa, gió,
sấm, chớp, tiếng cành cây gãy, tiếng rơi vỡ của đồ vật. Đặc biệt gà Sao khi còn nhỏ
rất sợ bóng tối, những lúc mất điện chúng thường chồng đống lên nhau đến khi có
điện gà mới trở lại hoạt động bình thường. Vì vậy cần hết sức chú ý khi nuôi gà Sao
để tránh stress có thể xảy ra.
Gà Sao thuộc loài ưa hoạt động, ban ngày hầu như chúng không ngủ, trừ giai đoạn
gà con. Ban đêm, chúng ngủ thành từng bầy.
Gà Sao có khả năng bay, nhưng chúng tìm kiếm thức ăn và làm tổ đẻ trên mặt đất. Gà
Sao có tính bầy đàn cao, thông thường chúng di chuyển theo đàn khoảng 20 con. Về

mùa đông, chúng sống từng đôi trống mái trong tổ trước khi nhập đàn vào những tháng
ấm năm sau. Gà Sao mái có thể đẻ 20 – 30 trứng và làm ổ đẻ trên mặt đất, sau đó tự ấp
trứng (Phùng Đức Tiến et al., 2006), con mái ấp trứng, trứng nở sau 26 – 28 ngày ấp
(Moreki, 2005).
Gà Sao rất nhút nhát và rất nhạy cảm với những tiếng động như: mưa, gió, sấm, chớp,
tiếng cành cây gãy, tiếng rơi vỡ của đồ vật. Đặc biệt, gà Sao khi còn nhỏ rất sợ bóng
tối, những lúc mất điện chúng thường chồng đống lên nhau đến khi có điện gà mới trở
lại hoạt động bình thường. Vì vậy, cần hết sức chú ý khi nuôi gà Sao để tránh stress có
thể xảy ra (Phùng Đức Tiến et al., 2006). Gà Sao thuộc loài hiếu động, ban ngày hầu
như chúng không ngủ, trừ giai đoạn gà con. Ban đêm, chúng ngủ thành từng bầy và
thích ngủ trên cây (Andrews, 2009).
2.4. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GÀ SAO
Gà Sao bắt nguồn từ gà rừng, theo cách phân loại gà Sao thuộc:
-

Lớp Aves

-

Bộ Gallformes

-

Họ Phasiani

-

Giống Numidiae

-

Loài Helmeted

Nguồn: (Moreki 2005 & Phùng Đức Tiến et.al., 2006)

2.5. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ SINH LÝ TIÊU HÓA Ở GIA CẦM
Cơ quan tiêu hoá của gia cầm khác biệt rất nhiều so với động vật có vú. Cấu tạo
tổng quát bộ máy tiêu hoá của gia cầm bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: Mỏ,
xoang miệng, hầu, thực quản, diều, dạ dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, ruột già và lỗ
huyệt (Dương Thanh Liêm, 2003).
2.5.1. Mỏ và xoang miệng
Gia cầm có mỏ được bọc bởi một lớp sừng có cấu tạo đặc biệt tuỳ theo loài. Ở gà
mỏ nhọn thích nghi cho việc mổ rỉa lấy thức ăn trên cạn.
Xoang miệng: trong xoang miệng có lưỡi và một hệ thống tuyến nước bọt rất phong
phú và phức tạp hơn động vật có vú. Tuyến nước bọt tiết ra nước bọt nhưng trong
đó không có enzyme tiêu hoá tinh bột. Tác dụng của nước bọt là làm trơn để dễ nuốt
thức ăn, thấm ướt thức ăn.
2.5.2. Thực quản và diều
Ống thực quản dài, trước khi đổ vào xoang ngực nó được phình to thành một cái túi
gọi là diều, sau đó trở lại như ống thực quản bình thường để đổ vào dạ dày tuyến.
Trên niêm mạc suốt ống thực quản và diều có rất phong phú tuyến nước nhờn. Nhờ
dịch nhờn tiết ra nhiều mà nó làm cho rất trơn để gia cầm dễ nuốt thức ăn với thực
quản rất dài của chúng. Hình thái giữa thực quản và diều ở gà rất dễ phân biệt lúc
no cũng như lúc đói. Diều có những chức năng sinh lý quan trọng như: dự trữ và
điều tiết lượng thức ăn đi trong ống tiêu hoá, tiết ra dịch diều để thấm ướt làm mềm
thức ăn, diều còn tiết ra sữa diều để nuôi con như chim bồ câu.
2.5.3. Dạ dày
Dạ dày tuyến: nằm trước dạ dày cơ, có dung tích rất nhỏ. Thời gian thức ăn dừng lại ở
dạ dày tuyến cũng rất ngắn. Dạ dày tuyến tiết ra HCl và enzyme pepsin để bắt đầu

tiêu hoá protein. Thức ăn đi qua đây được thấm ướt bởi dịch vị và tiếp tục được
chuyển xuống dạ dày cơ để tiêu hoá tiếp.

Hình 3: Hệ tiêu hóa của gà
Chú thích: 1: mỏ, 2: thực quản, 3: hầu, 4: diều, 5: dạ dày tuyến, 6: dạ dày cơ, 7: gan, 8: tụy, 9: ruột non, 10:
manh tràng, 11: lỗ huyệt

2.5.4. Dạ dày cơ
Dạ dày cơ thường được gọi là mề, có dung tích lớn hơn dạ dày tuyến. Trong niêm
mạc dạ dày cơ có lót bởi lớp tế bào sừng hoá rất cứng để chống lại sự va đập, xay
xát khi mề nghiền thức ăn. Phần dưới của lớp tế bào này là lớp tế bào tăng sinh để
thay thế cho lớp tế bào bên trên bị bào mòn. Trên bề mặt của lớp tế bào này có nhiều
gai nhỏ nhô lên làm cho niêm mạc trở nên nhám. Người ta gọi những gai nhỏ này là
“răng mề”. Dưới kính hiển vi mỗi “răng mề” có một tuyến nhờn rất nhỏ ở cạnh. Qua
khỏi lớp tế bào tăng sinh thì có mô cơ rất phát triển, màu đỏ sậm. Nhờ có hệ thống
cơ này giúp cho mề co bóp rất mạnh, nghiền nát thức ăn chuNn bị cho tiêu hoá tiếp
theo ở ruột. Mề co bóp có chu kỳ, tuỳ theo tính chất thức ăn mà chu kỳ co bóp có
thay đổi. Để giúp cho việc nghiền thức ăn, loài chim thường ăn những hạt sỏi
granit. Nếu thiếu sỏi thì làm giảm khả năng tiêu hoá thức ăn hạt trên 10%. Khi gà ăn
nhiều xơ hoặc ăn lông thì sỏi giúp nghiền nát nhanh hơn, gà tiêu thụ thức ăn nhiều
hơn (Dương Thanh Liêm, 2003).
2.5.5. Ruột
Ruột non là một ống dài có đoạn rộng hẹp khác nhau và chia làm 3 đoạn: đoạn trên là
một ống lớn có dạng hình chữ U gọi là tá tràng (Duodenum). Sự tiêu hóa hóa học bởi
enzyme cơ thể và sự hấp thu diễn ra rất mãnh liệt ở đây. Đoạn ruột non giữa (Jejunum)

bắt đầu từ cuối tá tràng nơi đổ ra của 4 ống tuyến (2 tuyến từ gan và 2 tuyến từ tụy) đến
chỗ cuống noãn hoàng (tương đương cuống rốn ở động vật có vú). Đoạn ruột non cuối

(Ileum) bắt đầu từ cuống noãn hoàng đến ngã tư manh tràng. Dưới tác dụng của các
loại enzyme từ dịch vị, dịch ruột, dịch tụy và dịch mật do gan tiết ra, phần lớn các chất
dinh dưỡng như carbohydrate, protein, lipid được tiêu hóa và hấp thu. Những mãnh
thức ăn còn cứng chưa được nghiền kỹ được đưa ngược lại dạ dày cơ nhờ nhu động
ngược của ruột non để dạ dày cơ nghiền tiếp. Vì lẽ đó nên niêm mạc của dạ dày cơ có
màu vàng của mật. Thời gian tiêu hóa ở ruột non khoảng 6 – 8 giờ (Dương Thanh
Liêm, 2003).
Ruột già chia làm ba phần gồm manh tràng (Caecum), kết tràng (Colon) và trực tràng
(Rectum). Manh tràng có cấu tạo thành hai nhánh đối xứng rất phát triển, chổ tiếp giáp
giữa ruột non và ruột già có van gọi là van hồi manh tràng để không cho thức ăn đi
ngược từ ruột già lên ruột non. Tiêu hóa ở ruột già cũng có hai quá trình lên men và
thối rữa. Lên men xảy ra mạnh ở manh tràng, thối rữa ở trực tràng. Manh tràng gia cầm
khá phát triển nên quá trình lên men tương đối mạnh, nhất là những gia cầm ăn nhiều
thức ăn thực vật xơ thô. Ruột của gia cầm nói chung tương đối ngắn, thức ăn lưu lại
không quá một ngày đêm (Nguyễn Đức Hưng, 2006).
2.5.6. Lổ huyệt
Lỗ huyệt (Cloaca) có cấu tạo gần giống như một cái túi, có các cửa đổ vào như ruột
già, hai ống dẫn niệu, đường sinh dục. Phân và nước tiểu nằm ở lỗ huyệt một thời gian,
ở đây có quá trình hấp thu muối và nước. Vì vậy làm cho phân gia cầm được khô đi.
Nước tiểu cũng bị cô đọng lại thành muối urate màu trắng ở đầu cục phân. Nếu cho gia
cầm ăn dư thừa protein thì muối urate sinh ra nhiều làm cho phân có màu trắng nhiều
và nếu cho ăn thiếu protein thì phân sẽ có màu đen nhiều hơn (Dương Thanh Liêm,
2003).
2.6. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA GIA CẦM
Cũng như các gia súc khác, gia cầm yêu cầu bốn thành phần dưỡng chất như: năng
lượng, protein, khoáng và vitamin. Sự thiếu hụt và không cân bằng của một dưỡng chất
nào cũng sẽ ảnh hưởng đến năng suất. Gia cầm cần một khNu phần sự cân bằng tốt và
sự tiêu hóa dễ dàng cho khả năng sản xuất trứng và thịt tốt (Robert, 2008).
2.6.1. Nhu cầu năng lượng
Mục đích chính trong việc sử dụng thức ăn là để sản xuất năng lượng cung cấp cho các

hoạt động cơ thể. Trước hết năng lượng thức ăn được đáp ứng cho nhu cầu duy trì cơ

thể. Khi thức ăn cung cấp năng lượng vượt quá nhu cầu duy trì thì được cơ thể sử dụng
cho các nhiệm vụ sản xuất (Dương Thanh Liêm et al., 2002).
Gia cầm nhận thức ăn với số lượng phù hợp với nhu cầu của chúng. Sự tiếp nhận thức
ăn ở gia cầm có liên quan nghịch với hàm lượng năng lượng trong khNu phần thức ăn.
Gia cầm ăn lượng nhiều thức ăn khi trong thức ăn chứa thấp năng lượng và ngược lại
(Bùi Đức Lũng et al., 2001).
Mức năng lượng trao đổi đối với gà thịt công nghiệp là 3100 kcal/kg thức ăn, gà trứng
công nghiệp giai đoạn từ gà con đến 10 tuần tuổi là 2900 kcal/kg thức ăn và giai đoạn
từ 11 tuần tuổi đến đẻ là 2800 kcal/kg thức ăn, gà thả vườn giai đoạn từ 1 – 21 ngày
tuổi là 3000 kcal/kg, giai đoạn gà giò – xuất là 2800 kcal/kg thức ăn (Dương Thanh
Liêm, 2003). Theo Leeson et al. (1997) thì nhu cầu năng lượng (ME) cho gà thịt từ
2900 - 3150 kcal/kg.
Mối tương quan giữa năng lượng và protein
Thông thường, protein không được cho rằng là nguồn cung cấp năng lượng trong khNu
phần nhưng nó đóng góp đáng kể vào nhu cầu năng lượng của gia cầm. Khi lượng lipid
và carbohydrate cung cấp không đủ, protein sẽ được sử dụng như nguồn cung cấp năng
lượng chính cho gia cầm (John, 2000).
Sự quan hệ chặt chẽ giữa năng lượng trao đổi với protein theo một hằng số nhất định
trong khNu phần thức ăn cho từng giai đoạn phát triển và sản xuất của gia cầm. Hằng số
đó được tính bằng hằng số kcal ME/% protein trong thức ăn.
Theo Bùi Đức Lũng & Lê Hồng Mận (2001) gợi ý hằng số ME/% protein trong thức ăn
cho các lứa tuổi gà như sau:
Gà từ 0-3 tuần tuổi (gà thịt): 127-130.
Gà từ 4-6 tuần tuổi: 145-150.
Gà từ 7 tuần tuổi đến kết thúc: 160-165.
Theo Lã Thị Thu Minh (2000) thì đối với gà thịt tỷ lệ năng lượng trao đổi và protein là
90-110.

Bảng 1: Nhu cầu dinh dưỡng của gà thương ph m (tiêu chu n Việt Nam 2265, 1994)

Gà trứng thương phNm
Gà thịt thương phNm
Chỉ tiêu
0-4 tuần 5-9 tuần 10-20
>21 tuần 0-3 tuần 4-7 tuần >7 tuần
tuần
ME, kcal/kg
3000
3000
3100
3100
3000
3000
3100
CP, %
21,0
18,0
17,0
16,0
24,0
21,0
18,0
CF, %
4,00
5,00
6,00

7,00
4,00
5,00
6,00
Ca, %
0,9-1,0 0,9-1,0 1,1-1,3 3,5-4,0 0,9-1,0 0,9-1,0 1,1-1,3
P, %
0,45
0,45
0,35
0,40
0,40
0,40
0,35
Muối ăn, %
0,50
0,50
0,50
0,50
0,50
0,50
0,50
Lysine, %
0,9-1,0 0,9-1,0
0,80
0,70
0,9-1,0 0,9-1,0
0,80
Methionine, % 0,60
0,60

0,40 0,35-0,40 0,60
0,60
0,40
ME: năng lượng trao đổi, CP: protein thô, EE: béo thô, CF: xơ thô, Ca: can xi, P: phospho
(Nguồn: Viện Chăn Nuôi Quốc Gia (2001))

Bảng 2: Trọng lượng và nhu cầu năng lượng cho gà thịt

Tuần Trọng lượng cơ thể
tuổi
(g)

1
2
3
4
5
6
7
8
9

Trống
130
320
560
860
1250
1690
2100

2520
2925

Mái
120
300
515
790
1110
1430
1745
2060
2350

Lượng thức ăn ăn
vào hàng tuần (g)
Trống
120
260
390
535
740
980
1095
1210
1320

Mái
110
240

355
500
645
800
910
970
1010

Tiêu thụ năng lượng
hàng tuần (ME,
kcal/con)
Trống
Mái
385
350
830
770
1250
1135
1710
1600
2370
2065
3135
2560
3505
2910
3870
3105
4225

3230

(Nguồn: NRC (1994))

2.6.2. Nhu cầu protein và acid amin
Theo Viện Chăn Nuôi Quốc Gia (1995) nhu cầu protein thô (CP) của giống gà địa
phương: từ 5 – 7 tuần tuổi là 18%, từ 7 – 13 tuần tuổi là 15,5 – 16,5% và từ 14 – 19
tuần tuổi là 15 – 16%.
Theo Dương Thanh Liêm (2003) mức CP trong khNu phần đối với gà thịt công nghiệp
giai đoạn 0 – 3 tuần tuổi là 23%, giai đoạn 3 – 6 tuần tuổi là 20%, giai đoạn 6 tuần tuổi
đến xuất chuồng là 18%. Đối với gà trứng công nghiệp giai đoạn từ 0 – 10 tuần tuổi là

20%, giai đoạn từ 11 tuần tuổi đến lúc đẻ là 17%. Còn đối với gà Lương Phượng thả
vườn giai đoạn từ 1 – 21 ngày tuổi là 20%, giai đoạn từ 22 – 42 ngày tuổi là 17%.
Theo Leeson et al. (1997) thì nhu cầu CP trong khNu phần gà thịt là 16 - 23%, tuy
nhiên còn phải tùy thuộc vào mức năng lượng (ME) của khNu phần.
Nhu cầu protein và acid amin khác nhau phụ thuộc vào tình trạng sản xuất của gia cầm,
mà cụ thể là khác nhau giữa giai đoạn tăng trưởng và giai đoạn sản xuất trứng. Ví dụ
đối với giống gà thịt có nhu cầu cao acid amin để tăng trọng nhanh, còn đối với gà
trưởng thành cần nhu cầu acid amin thấp hơn gà đẻ trứng (NRC, 1994).
Kích thước cơ thể, tốc độ tăng trọng và sản xuất trứng của gia cầm được xác định bởi
gen của chúng. Vì vậy, nhu cầu acid amin cũng khác nhau tùy giai đoạn, tùy giống và
tình trạng của gia cầm (NRC, 1994).
Bảng 3: Dữ liệu đã công bố về acid amin cho gà thịt

Acid amin (%)
Lysine
Methionine
Met+cys

Threonine
Arginine
Isoleucine
Leucine
Tryptophan
Histidine

NRC (1994)
0-21 ngày
21-42 ngày
100
100
45
38
82
72
73
74
114
110
82
82
109
109
18
18
32
32

Austic (1994)

0-21 ngày
100
38
72
62
96
69
92
18
32

Đối với NRC (1994) tỷ lệ acid amin được tính dựa vào mức độ tổng lysine (1,1% đối
với gà thịt 0 - 21 ngày tuổi và 1% đối với gà thịt từ 21 - 42 ngày tuổi), còn theo Austic
(1994) thì tỷ lệ acid amin được tính cũng dựa vào tổng nhu cầu lysine (1,3%).
2.6.3. Nhu cầu khoáng
Theo Dương Thanh Liêm (2003), nhu cầu Ca là 1% và P là 0,7% trong khNu phần cho
gà con và gà giò thịt. Đối với gà con, gà giò hậu bị giống là 1,2% Ca, 0,8% P. Còn đối
với gà mái đẻ (ăn trên 100g) nhu cầu Ca là 3% và P là 0,6%.
Bảng 4: Nhu cầu chất khoáng tính trong 1 kg thức ăn hỗn hợp của gia cầm

Loại gia cầm

Ca
(%)

P
(%)

NaCl
(%)

Fe
(mg)

Cu
(mg)

Mg
(mg)

Mn
(mg)

Zn
(mg)

Gà con (0 – 8 tuần)

0,90

0,70

0,40

80,0

4,00

600

55,0

40,0

Gà sinh trưởng

0,60

0,40

0,40

40,0

3,00

400

25,0

35,0

(Nguồn: NRC (1994))

2.6.4. Nước uống
Nước uống phải đảm bảo sạch mát. Thay nuốc 2 – 3 lần trong ngày.
Việc cung cấp nước rất quan trọng. Cơ thể gà dự trữ một lượng nước rất nhỏ. Nước
uống mát sẽ có tác dụng kích thích gà ăn tốt hơn. (Phùng Đức Tiến et al., 2006).
Nước uống cung cấp cho gà thịt không những phải trong và mát mà còn phải đảm bảo

các tiêu chuNn vệ sinh thú y. Nước mát là một điều kiện tiên quyết ( nhiệt độ của nước
là 20oC ), vì gà không thích uống nước nóng. Gà thịt ăn khỏe nên nhu cầu nước uống
cũng cao hơn các loại gà khác. Nhu cầu nước uống cũng cao hơn các loại gà khác. Nhu
cầu nước uống cho gà thịt trong điều kiện nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp được tính
bằng tỷ lệ nước/ thức ăn là 2/1. Tuy nhiên nhu cầu nước uống còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau. Phụ thuộc rõ rệt nhất là nhiệt độ chuồng nuôi. Khi nhiệt độ chuồng
nuôi tăng từ 20oC lên 30oC, từ tăng 1oC thì nhu cầu nước uống tăng thêm 2%. Sau
30oC, cứ tăng 1oC, nhu cầu nước cứ tăng thêm 6% (Nguyễn Thị Mai, 2009).
Nước cần cho việc phân tích protein, lipid, và glucid trong ống tiêu hóa. Nước vận
chuyển các chất khoáng, các vitamin tan trong nước, các sản phNm phân hủy khác
trong ống tiêu hóa. Nước là môi trường cần thiết cho quá trình lên men của trao đổi
chất trong cơ thể cũng như đối với sự thNm thấu và khuyết tán các chất (Malekhin et
al., 1977).
2.7. MỘT SỐ LOẠI THỰC LIỆU THỨC ĂN ĐỂ NUÔI GIA CẦM
2.7.1. Bắp
Hiện nay có nhiều giống bắp được trồng ở nước ta, các giống cho hạt với nhiều màu
sắc khác nhau như vàng, trắng và đỏ. Bắp là loại thức ăn cơ sở của gia cầm, tỷ lệ
thường chiếm 45 - 70%. Bắp là thức ăn được gia cầm thích ăn có vị thơm ngon, chứa
khoảng 720-800 gam tinh bột/kg DM và hàm lượng xơ rất thấp, giá trị ME cao từ 3100
- 3450 kcal ME/kg DM, CP từ 8 - 12% và tỷ lệ chất béo trong hạt bắp tương đối cao từ
4 - 6% (Viện Chăn Nuôi Quốc Gia, 1995). Ngoài ra, bắp còn chứa hàm lượng đáng kể
caroten, theo Dương Thanh Liêm (2003) thì trong bắp vàng đơn vị vitamin A tính trên
carotencos thể đạt tới 5000 UI/kg. Tuy nhiên, bắp có nhược điểm là chứa hàm lượng
thấp nhất acid amin thiết yếu là lysine và tryptophan, nghèo chất khoáng (Ca chiếm
0,15% và K chiếm 0,45%). Bắp dễ bị nhiễm nấm mốc khi độ Nm trên 15% (Bùi Đức
Lũng et al., 2001).

Hàm lượng protein thô của bắp khoảng 8,5%, nhưng không cân bằng tốt acid amin, các
acid amin như lysine, threonine, isoleucine và tryptophan thì bị giới hạn. Gần đây

người ta tạo được một số giống giàu acid amin hơn so với các giông bắp bình thường,
song vẫn nghèo methionine. Vì vậy, khi dùng bắp Oparque-2 cho lợn và gia cầm, cần
bổ sung thêm methionine. Một giống bắp mới nữa là Floury-2 có hàm lượng lysine và
cả methionine cao hơn bắp Oparque-2. Dùng loại bắp này không phải bổ sung thêm
methionine (Robert, 2008).
Bắp chứa nhiều vitamin E nhưng ít vitamin D và vitamin nhóm B. Bắp chứa ít canxi,
nhiều photpho nhưng chủ yếu dưới dạng kém hấp thu là phytate.
2.7.2. Cám gạo
Cám gạo là sản phNm phụ của công nghiệp xay xát. Cám gạo được hình thành từ lớp vỏ
nội nhũ, mầm phôi của hạt, cũng như một phần từ tấm. Chất béo của nó có ảnh hưởng
làm nhão mỡ vật nuôi và mềm bơ sữa. Có thể đưa vào khNu phần của gia cầm đến 25%
(Nguyễn Thị Hồng Nhân, 2001). Hàm lượng protein trong cám gạo cao từ 12 - 14%
CP, 11 - 18% EE (Viện Chăn Nuôi Quốc Gia, 1995).
Cám là nguồn B1 phong phú, ngoài ra còn có cả vitamin B6 và biotin, 1kg cám gạo có
khoảng 22mg vitamin B1, 13mg B6 và 0,43mg biotin. Cám gạo là sản phNm có giá trị
dinh dưỡng, chứa 11 - 13% protein thô, 10 - 15 % lipid thô, 8 - 9% chất xơ thô, khoáng
tổng số 9 - 10% (Lê Đức Ngoan et al., 2004).
2.7.3. Bánh dầu đậu nành
Đậu nành và bánh dầu đậu nành là loại thức ăn cung cấp đạm được xếp vào hạng loại
nhất trong các loại thức ăn cung cấp đạm cho gia cầm trên thế giới cũng như trong
nước. Hạt đậu nành có hàm lượng protein rất cao so với các hạt đậu khác, trong hạt khô
có thể đạt từ 36 - 37% protein thô, chất béo thô trong hạt đạt từ 17 - 18%, trong chất
béo này có rất nhiều acid béo thiết yếu như acid linoleic và acid linolenic. Đậu nành
hạt ngoài giá trị cung cấp đạm ra nó còn là loại thức ăn giàu năng lượng cao hơn bắp và
hầu hết các loại hạt có dầu khác vì vậy sử dụng trong chăn nuôi gà thịt rất tốt. Sản
phNm phụ của đậu nành sau khi ép dầu là bánh dầu đậu nành là loại thức ăn cung cấp
đạm dùng rất phổ biến hiện nay, nó có chứa hàm lượng protein thô từ 41- 50%, hàm
lượng xơ thấp (Robert, 2008).
Hàm lượng acid amin của đậu nành thì rất tốt. Hàm lượng lysine trong protein đậu
nành chỉ thấp hơn so với protein đậu Hà Lan, bột cá và sữa. Đậu nành là nguồn giàu

tryptophan, threonine and isoleucine mà thường là các acid amin bị giới hạn trong các
loại hạt ngũ cốc (Robert, 2008). Một số nước trên thế giới coi đậu nành là thức ăn cung
cấp đạm chủ yếu trong thức ăn gia cầm. Đậu nành sau khi rang, xử lý nhiệt độ có mùi

thơm, kích thích tính thèm ăn của gia cầm. Gia cầm ăn bắp và đậu nành thì chất lượng
thịt thơm ngon (Lê Đức Ngoan et al., 2004).
Tuy nhiên, trong đậu nành sống có chứa chất antitrypsine như glycin, lectinin và soyin.
Vì vậy, nếu không xử lý mà cho gia cầm ăn đậu nành sống thì không những làm giảm
khả năng tiêu hoá mà còn làm giảm giá trị sinh học của đậu nành.
2.7.4. Bột cá
Ở nước ta bờ biển rất dài, nghề đánh bắt hải sản phát triển nên nguyên liệu cá vụn để
làm bột cá rất phong phú, vì vậy bột cá được sử dụng phổ biến trong thức ăn gia cầm.
Tuỳ theo các nguyên liệu và tuỳ theo cách chế biến (quá nóng và oxy hóa) mà thành
phần dinh dưỡng và chất lượng bột cá khác nhau rất nhiều (Seerley, 1991; Wiseman et
al., 1991).
Bột cá được thế giới đánh giá là loại thức ăn rất tuyệt vời cho gia cầm. Bột cá rất giàu
protein (40-50% CP) với thành phần acid amin cân đối, hàm lượng lysine và
methionine cao, vì vậy giá trị sinh học của nó cũng cao hơn các loại hạt đậu. Hầu hết
các nguyên tố khoáng, đặc biệt là Ca, P và vitamin nhóm B thì cao hơn khi so với các
nguồn protein khác và P hữu dụng cao (Robert, 2008).
Theo nghiên cứu của Karimi (2006) cho thấy rằng khi sử dụng bột cá ở mức độ cao (50
g/kg cho giai đoạn bắt đầu và 25 g/kg cho giai đoạn tăng trưởng) cho trọng lượng cuối
và tăng trọng cao do kích thích tăng lượng ăn vào.
2.8. BÃ BIA
2.8.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bã bia
Lúa mạch được ngâm 2-3 ngày trong nước ấm làm cho chúng mọc mạnh và phát triển,
thời gian này men α - amilaza và β - amilaza hoạt động trong hạt. Khi mầm và rễ dài
20 cm người ta cho ngưng phát triển bằng cách sấy khô gọi là mầm nha. Mầm nha
được trộn với gạo, tấm hoặc ngũ cốc khác, nghiền nhỏ, thêm nước ủ ấm vài ngày, men

α - amilaza và β - amilaza sẽ hoạt động biến tinh bột thành đường thì đem lọc lấy nước
bia, phần xác còn lại gọi là bã bia (Xác định hàm lượng dưỡng chất và tình hình sử
dụng các phụ phNm chế biến hủ tiếu, tàu hủ, rượu, bia cho chăn nuôi ở huyện Châu
Thành và TP Cần Thơ. Nguyễn Thanh Phi Long, 1996). Bã bia còn tươi chứa lượng
nước từ 76,9 - 87,5% trong bã bia có các mãnh hạt chứa nhiều dẫn xuất không nitơ,
hầu như toàn bộ lipid protein của các loại hạt, bột nằm trong bã bia. Trong 100kg bã
bia thô (độ Nm dưới 12%) có 15,2 kg protein dễ tiêu hóa trong đó có 350g lysine, 110g
tryptophan, 160g methionine, 450g arginine ngoài ra còn nhiều chất khoáng và vitamin
nhóm B. Hàm lượng đạm và chiết chất không đạm của bã bia tương đối cao, protein

thô từ 3,45-6,09%, chiết chất không đạm 4,5-12,5%, chất xơ trong bã bia khá cao 1.324.88% là một chất xơ có độ tiêu hóa cao so với các loại xơ của thức ăn khác (Lương
Đức PhNm, 1982. Acid amin và enzyme trong chăn nuôi (NXB Khoa học kỹ thuật).
Theo Bo Gold (1981) bã bia sử dụng nuôi gia súc rất tốt, bã bia làm thức ăn cung cấp
khối xác protein khá cao. Trong bã bia còn có một yếu tố chưa xác định kích thích tính
thèm ăn, cải thiện sự tăng trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn ở gia cầm, tăng tỉ lệ có
phôi và tỷ lệ nở.
Bã bia có hàm lượng đạm cao: độ thô (CP) từ 23 – 28%, chứa hầu hết các acid amin
thiết yếu giới hạn: lysine 0,9%, methionine: 0,3 – 0,6%, ME của bã bia từ 7,3 – 10,8
MJ/ kg, chiết chất không đạm (NFE) từ 41,3 – 46,7%, béo (EE) từ 3,7 – 8%, xơ thô
(CF) từ 12 – 18% (Nguyễn Thị Kim Đông, 2003). Do có hàm lượng xơ cao nên tỉ lệ bã
bia khô trong mức ăn mỗi ngày của gà con và gà đang tăng trưởng giới hạn ở mức 20%
(Onwudike và ctv. 1986).
Bã bia ướt cần ăn tươi vì nó để chua sau vài ngày nếu cho ăn có thể gây rối loạn cân
bằng acid kiềm của trâu bò thậm chí gây ngộ độc khi ăn một lượng lớn. Trong mọi
trường hợp 150g bicabonat natri ngày 2 lần dùng trong 2 ngày sẽ chữa khỏi rối loạn kể
trên (Bo Gohl, 1981).
Bã bia còn tươi chứa lượng nước 76,9 – 87,5%. Trong bã bia có các mãnh hạt chứa
nhiều dẫn xuất không nito, hầu như toàn bộ lipid và protein của các loại hạt, bột nằm
trong bã bia. Trong 100kg bã bia thô (độ Nm dưới 12%) có 15,2kg protein dễ tiêu hóa

trong đó có 350g lysine, 110g tryptophan, 160g methionine, 450g arginin, ngoài ra còn
nhiều chất khoáng và vitamin nhóm B. Hàm lượng đạm và chiết chất không đạm của
bã bia tương đối cao, protein thô từ 3,45-6,09%, chiết chất không đạm 4,5-12,5% phù
hợp với viện Chăn Nuôi CP 6,74%, chiết chất không đạm 8,42% thành phần đạm trong
bã bia có từ rễ mầm nha của lúa mạch hay lúa vàng, chiết chất không đạm do hạt gạo
chưa phân hủy hết để nuôi mầm nha. Chất xơ trong bã bia khá cao 1,32-4,88% là một
loại xơ có độ tiêu hóa cao so với các loại xơ của thức ăn (Lương Đức PhNm, 1982.
Acid amin và Enzym trong chăn nuôi. NXB Khoa Học Kỹ Thuật).
Bảng 5: Thành phần dinh dưỡng của bã bia

DM,%

CP,%

EE,%

CF,%

NFE,% NDF,% ADF,% Ash,%

ME,MJ/kg

25,0

23,6

10,6

14,4

47,9

7,30

(Nguồn: Nguyễn Thị Kim Đông, (2003))

50,9

17,5

3,46

Chủ đề