Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng năm 2024

1. Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại 1.1. Khái niệm hoạt động cho vay khách hàng cá nhân Theo khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định và trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi”.

Hoạt động cho vay là một giao dịch dân sự giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính) và bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao quyền sử dụng tiền cho bên đi vay trong một thời gian nhất định. Khi đến hạn trả nợ, bên đi vay cam kết hoàn trả gốc và lãi cho bên cho vay theo các điều kiện đã thỏa thuận.

Cho vay khách hàng cá nhân (KHCN) là một bộ phận của hoạt động cho vay trong kinh doanh ngân hàng, trong đó, khách hàng vay vốn là các cá nhân, hộ gia đình nhằm phục vụ mục đích mua nhà, xây sửa nhà, mua ô tô, mua trang thiết bị gia đình, thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn. Các phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, cho vay cầm cố sổ tiết kiệm.... Thời hạn cho vay linh hoạt tùy vào mục đích vay của khách hàng và kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng.

1.1. Đặc điểm hoạt động cho vay KHCN Hầu hết các khoản cho vay KHCN có quy mô nhỏ nhưng số lượng khoản vay lớn do đối tượng cho vay là các cá nhân, hộ gia đình có địa bàn sinh sống khá rộng, số lượng khách hàng lớn khiến cho ngân hàng khó có thể kiểm soát chặt chẽ từng khoản vay, điều này cũng gây khó khăn trong quá trình thu hồi nợ.

Cho vay KHCN có mức độ rủi ro lớn và được coi là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất phát từ bản thân khách hàng vay vốn cố tình sử dụng vốn sai mục đích, có thể có sự biến động về tình hình tài chính dẫn đến mất khả năng chi trả hay khách hàng cố tình không chịu trả nợ, hoặc do biến động về tình trạng sức khỏe, công việc...

Vì thế ngân hàng giải quyết được một trong những đặc điểm của tiền là “tiền có giá trị thời gian”. Các nguồn vốn nhàn rỗi được tập hợp và đầu tư cho các phương án, dự án kinh doanh khác nhau đang cần vốn, giúp tăng trưởng, phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

Hoạt động cho vay KHCN góp phần mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật theo xu hướng mới nhất của thế giới. Việc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh mà còn làm thay đổi cách nghĩ, cách làm... làm thế nào để sử dụng đồng vốn có hiệu quả, đủ trang trải cho khoản lãi ngân hàng giúp các cá nhân tích cực cập nhật và đổi mới công nghệ góp phần phát triển kinh doanh, phát triển nền kinh tế, xã hội.

1. Rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN của NHTM 1.2. Khái niệm rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN Theo Basel II: “Rủi ro tín dụng đơn giản được định nghĩa là khả năng bên vay hay đối tác của ngân hàng không thực hiện các nghĩa vụ theo các điều khoản đã thỏa thuận”.

Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết” (Điều 3, khoản 1)

Rủi ro là những biến cố không mong đợi, khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.

Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro trong hoạt động cho vay nói riêng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng.

Theo dự thảo Thông tư 2016/TT/NHNN ngày 12/08/2016 của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng là rủi ro do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng hoặc thỏa thuận với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

Như vậy, rủi ro tín dụng (RRTD) đối với ngân hàng xuất phát từ cả hai phía là người cho vay (chủ nợ của ngân hàng) và người đi vay (con nợ của ngân hàng). Trường hợp thứ nhất là người gửi tiền (người cho ngân hàng vay) muốn rút tiền mà ngân hàng lại không thanh toán được, thực ra bản chất đấy là rủi ro thanh khoản nhưng nó lại liên quan mật thiết đến trường hợp thứ hai là ngân hàng không thu được đầy đủ các khoản cho vay bao gồm cả khoản gốc và lãi, hoặc việc thanh toán các khoản nợ (gồm gốc và lãi vay) không đúng hạn. Điều này xảy ra khi khách hàng vay tiền của ngân hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ.

Rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN mang đầy đủ các đặc điểm trên nhưng là rủi ro xảy ra trong quá trình ngân hàng cho các khách hàng cá nhân vay vốn.

1.2. Phân loại rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro trong cho vay nói riêng, tùy theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu. Việc phân loại rủi ro tín dụng có ý nghĩa rất lớn trong việc thiết lập chính sách, quy trình và mô hình tổ chức quản trị tín dụng. Phân loại rủi ro tín dụng giúp nhận biết đầy đủ các yếu tố và giai đoạn gây ra rủi ro. Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay khách hàng cá nhân có thể được phân loại như sau:

Theo nguyên nhân phát sinh rủi ro

  • Rủi ro giao dịch: là rủi ro liên quan đến từng khoản vay đơn lẻ hoặc từng khách hàng cụ thể. Đây là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh từ những hạn chế, thiếu sót trong quá trình tác nghiệp như thẩm định xét duyệt hồ sơ vay vốn, giải ngân, kiểm soát sau vay... Rủi ro giao dịch bao gồm: rủi ro lựa chọn đối nghịch (do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi quyết định tín dụng); rủi ro bảo đảm; rủi ro nghiệp vụ.
  • Rủi ro sau khi cho vay: Rủi ro xảy ra khi ngân hàng không nắm được tình hình và mục đích sử dụng vốn vay, khi khách hàng cố tình sử dụng vốn vay không đúng mục đích ban đầu hoặc thay đổi trong khả năng tài chính, cũng như thiện chí trả nợ của khách hàng.

1.2. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN 1.2.3. Quy mô tín dụng Quy mô tín dụng không phải là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, nếu quy mô tín dụng tăng trưởng quá nóng, không tương ứng với khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó, quy mô tín dụng sẽ phản ánh rủi ro tín dụng.

Nếu quy mô tín dụng quá lớn, vượt quá khả năng quản lý của ngân hàng thể hiện qua sự gia tăng của các chỉ tiêu: dư nợ trên tổng tài sản, dư nợ trên tổng số cán bộ tín dụng so với mức trung bình của các ngân hàng ... thì mức độ rủi ro tăng lên.

Nếu ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng theo hướng nới lỏng tín dụng cho từng khách hàng: cho vay vượt quá nhu cầu khách hàng, cho vay vượt quá mức tài sản đảm bảo cho phép, cho vay vượt quá khả năng trả nợ của khách hàng sẽ dẫn tới rủi ro là khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay... điều này sẽ gây rủi ro cho ngân hàng.

1.2.3. Cơ cấu tín dụng Cũng giống như quy mô tín dụng, yếu tố này không phản ánh trực tiếp mức độ rủi ro, mà chỉ phản ánh mức độ tập trung tín dụng trong một ngành, lĩnh vực, thời gian.... Nếu cơ cấu tín dụng quá thiên lệch vào những lĩnh vực mạo hiểm sẽ phản ánh các rủi ro tín dụng tiềm năng. Cơ cấu tín dụng có thể chia thành các nhóm như sau:

  • Cơ cấu tín dụng theo ngành: Khi cơ cấu tín dụng tập trung quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực thì mức độ rủi ro sẽ cao khi ngành, lĩnh vực đó bị suy thoái hoặc bị ảnh hưởng bởi một ngành khác có liên quan.
  • Cơ cấu tín dụng theo thời hạn cho vay: Nếu ngân hàng có cơ cấu vốn ngắn hạn lớn, vốn dài hạn thấp, trong khi cơ cấu tín dụng trong dài hạn lại lớn, điều đó có nghĩa là ngân hàng đã sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn, khi đó ngân hàng có thể sẽ gặp phải rủi ro

thanh khoản.

  • Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo: Tỷ lệ các khoản cho vay có tài sản đảm bảo thấp thì ngân hàng đối mặt với rủi ro tiềm ẩn khi khách hàng không trả được nợ.

1.2.3. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản phản ánh rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn là kết quả của quan hệ tín dụng không hoàn hảo, nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn và tính hoàn trả đầy đủ. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi tới hạn hoàn trả theo cam kết, người vay không có khả năng hoàn trả đầy đủ hay một phần gốc và/hoặc lãi cho bên cho vay. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nợ quá hạn phát sinh là không thể tránh khỏi, nhưng nếu nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Nợ quá hạn có nhiều mức độ khác nhau, căn cứ vào tính chất rủi ro, ta có các chỉ tiêu phản ánh như sau:

Số dư nợ quá hạn

  • Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% (1) Tổng dư nợ Tỷ lệ “nợ quá hạn” phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được. Nợ quá hạn cho biết, cứ trên 100 đồng dư nợ hiện tại có bao nhiêu đồng đã quá hạn, đây là một tiêu chí cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn tỷ lệ nghịch với chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản ánh những số dư nợ thực sự đã quá hạn, mà không phản ánh toàn bộ quy mô dư nợ có nguy cơ quá hạn. Do đó, chỉ tiêu “tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn” có thể khắc phục được nhược điểm này.

Tổng dư nợ có nợ quá hạn -Tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn = x 100% (1) Tổng dư nợ Chỉ tiêu này bao gồm toàn bộ dư nợ của một khách hàng (kể cả đến hạn và chưa đến hạn) kể từ khi xuất hiện món nợ quá hạn đầu tiên, nên nó phản ánh chính xác hơn mức độ

  • Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ hai; Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
  • Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
  • Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lần đầu;
  • Các khoản nợ cơ cấu lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lần thứ hai;
  • Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã bị quá hạn;
  • Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; -Công thức tính tỷ lệ nợ xấu:

Tỷ lệ nợ xấu

Nợ xấu = x 100% (1) Tổng dư nợ Tỷ lệ “nợ xấu” cho biết, trong 100 đồng tổng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu, vì vậy, tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà có nguy cơ mất vốn.

1.2.3. Trích lập dự phòng và bù đắp rủi ro tín dụng Dự phòng rủi ro theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 được khái niệm như sau: “ Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Dự phòng chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể ”.

Dự phòng rủi ro đánh giá khả năng bù đắp tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Khi ngân hàng phải sử dụng quỹ dự phòng, điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng đang gặp phải tình trạng rủi ro mất vốn, do đó, dự phòng rủi ro là chỉ tiêu phản ánh tình trạng rủi ro mất vốn.

Dự phòng rủi ro trích lập

Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD = x 100% (1)

Tổng dư nợ Tỷ lệ này phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín dụng. Một tỷ lệ thấp hơn cho thấy chất lượng tín dụng tốt hơn. Tại Việt Nam quy định dự phòng chung được trích lập cho tất cả các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 và bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0%; nhóm 2: 5%; nhóm 3: 20%; nhóm 4: 50%; nhóm 5: 100%. Công thức tính số tiền dự phòng cụ thể như sau: R = max{0, (A-C)} x r (1) Trong đó R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: giá trị khoản nợ C: giá trị tài sản bảo đảm r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể Theo cách tính toán trên, số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Do đó, ngân hàng cần định giá chính xác giá trị tài sản đảm bảo tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp khoản vay.

  • Tỷ lệ xóa nợ

Xóa nợ

khúc khách hàng mà các doanh nghiệp, nhà sản xuất cung cấp, qua đó tác động đến sự thành công hay thất bại của khách hàng vay vốn.

  • Môi trường công nghệ (Technological): công nghệ đã và đang là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân. Ứng dụng và nắm bắt được xu hướng phát triển của công nghệ là một trong những yếu tố then chốt để tồn tại và phát triển.
  • Môi trường vi mô: Đây là môi trường ngành tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn khi gặp các rủi ro:
  • Từ phía nhà cung cấp : không giao hàng, giao hàng chậm, giao hàng kém chất lượng, không thực hiện bảo hành bảo trì như thỏa thuận, không cung cấp hàng phụ tùng thay thế...
  • Từ phía khách hàng mua: hủy đơn đặt hàng trong khi hàng hóa đã được sản xuất, nhận hàng nhưng không thanh toán, thanh toán chậm, dây dưa, quỵt nợ...
  • Từ phía tài sản bảo đảm: tài sản bảo đảm khó định giá, tính khả mại thấp, biến đổi theo chiều hướng bất lợi hoặc thay đổi hiện trạng, phát sinh tranh chấp về pháp lý.
  1. Nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng Khách hàng chủ ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh,... .Một khách hàng đã phát sinh nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác hoặc đã từng bội tín trong hoạt động kinh doanh sẽ là những khách hàng tiềm ẩn khả năng phát sinh nợ quá hạn.

Năng lực quản lý kinh doanh yếu kém, khả năng tổ chức điều hành sản xuất không bắt kịp thay đổi của thị trường, dẫn đến hoạt động kinh doanh thua lỗ, mất khả năng trả nợ ngân hàng.

  1. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng cho vay Chính sách tín dụng của ngân hàng không hiệu quả, không phù hợp với nền kinh tế, quy chế tín dụng không chặt chẽ để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.

Cán bộ tín dụng không chấp hành đúng quy trình tín dụng như: không đánh giá đầy đủ chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay khống, thiếu tài sản bảo đảm, cho vay vượt tỷ lệ cho vay trên tài sản, không kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng và kiểm soát sau vay, thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả mạo, nhận quà biếu hay nhận hối lộ của khách hàng.

Do áp lực cạnh tranh nên ngân hàng đã nới lỏng các điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng. Ngoài ra, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng yếu kém cũng dẫn đến việc đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng không chính xác, đánh giá sai khả năng trả nợ của khách hàng.

1.2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng a, Đối với nền kinh tế Rủi ro tín dụng có thể khiến ngân hàng dè dặt trong việc huy động và cung ứng vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất bị đình trệ, tăng trưởng kinh tế chậm lại, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp gia tăng, chất lượng cuộc sống giảm sút.

Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính hệ thống, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chủ thể trong toàn bộ nền kinh tế, do đó, rủi ro tín dụng có thể gây hậu quả với toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia.

b, Đối với ngân hàng Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho nguồn vốn ngân hàng bị thất thoát, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút, thậm chí nếu trầm trọng hơn có thể bị phá sản.

Nếu một ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí mất khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng và các bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng nhà nước (NHNN) và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.

Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt và định kỳ (ít nhất 1 năm/lần) rà soát lại các chiến lược rủi ro tín dụng, các chính sách rủi ro tín dụng. Chiến lược này cần bao hàm mức độ chấp nhận rủi ro, khả năng ứng phó dự kiến nếu có xảy ra các loại hình rủi ro tín dụng. Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình nhằm xây dựng môi trường tín dụng thích hợp.

Các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản, điều kiện cấp tín dụng...). Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời cần phát triển đội ngũ nhân viên quản trị rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức, nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản trị rủi ro tín dụng.

Ngân hàng cần có hệ thống quản trị các danh mục tín dụng hiệu quả, có hệ thống giám sát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín dụng, bao hàm việc xác định quy mô thích hợp các khoản dự phòng, xây dựng và sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro. Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích giúp ban điều hành đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán; có hệ thống giám sát cơ cấu và chất lượng tổng thể của danh mục tín dụng.

Ngân hàng cần thiết lập hệ thống đánh giá độc lập và liên tục đối với các quy trình quản trị rủi ro tín dụng và các kết quả đánh giá này cần thông báo cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao. Quy trình cấp tín dụng cần phải được quản lý chặt chẽ, mức cho vay phải nằm trong các chuẩn mực an toàn và giới hạn cho phép. Ngân hàng cần có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản tín dụng có dấu hiệu xấu đi, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề và các tình huống tương tự.

1.3. Nội dung của công tác quản trị rủi ro tín dụng 1.3.3. Thiết lập khung pháp lý hoạt động cho vay

Chính sách tín dụng là tổng thể các quy định của ngân hàng về hoạt động tín dụng nhằm đưa ra định hướng và hướng dẫn hoạt động của cán bộ ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng. Bao gồm: điều kiện cho vay, hạn mức, lãi suất, kỳ hạn, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác... Chính sách tín dụng được phản ánh thông qua các nội dung cụ thể về điều kiện cho vay, hạn mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất và mức đảm bảo cho mỗi khoản tín dụng. Các tiêu chuẩn điều kiện về hạn mức cho vay được quy định trong từng sản phẩm cụ thể, đối với từng khách hàng.

Rủi ro đi liền với lợi nhuận, đó chính là sự đánh đổi. Trong mỗi giai đoạn, ngân hàng cần xác định rõ khẩu vị rủi ro và đánh giá mức độ rủi ro mong muốn có xứng đáng với lợi ích, mục tiêu tăng trưởng, mục tiêu chiến lược của ngân hàng hay không. Khẩu vị rủi ro là khả năng, cách thức, mức độ và phạm vi chấp nhận rủi ro nhằm đạt được những mục tiêu hoạt động, kinh doanh mà ngân hàng theo đuổi. Làm được điều này, ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất, và tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng.

1.3.3. Xây dựng quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Vì vậy, ngân hàng cần xây dựng quy trình tín dụng khoa học, hợp lý giúp bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng.

1.3.3. Thiết lập chiến lược, xây dựng văn hóa quản trị rủi ro Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng nằm trong chiến lược quản trị rủi ro chung của toàn ngân hàng, là kế hoạch tổng thể thống nhất của ngân hàng về công tác quản trị rủi ro do ban điều hành dự thảo và được hội đồng quản trị, hội đồng thành viên phê duyệt. Chiến lược quản trị rủi ro cho ngân hàng có thể trong khoảng thời gian từ ba đến năm năm.

Chiến lược quản trị RRTD phải phù hợp với tình hình hiện tại của ngân hàng và thị trường, phải phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng. Chiến lược quản trị RRTD

đã định. RRTD một khi đã được xác định thì cần phải được phân tích, đo đường và đưa ra các biện pháp xử lý theo dõi. Trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản lý rủi ro tín dụng phải có khả năng xác định và tìm ra các nguy cơ rủi ro mới và các rủi ro tín dụng đang tồn tại.

Nguồn: (Dương Hữu Hạnh 2013 ) S đồồ ơ 1: Quy trình qun tr ri ro tn dngảịủụ 1.3.4. Nhận biết rủi ro Đây là bước đầu tiên trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM, ngân hàng phải nhìn nhận từ chính mình để thấy nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, kết hợp với việc nhìn nhận từ phía khách hàng vay vốn để nhận ra rủi ro từ các dấu hiệu báo trước.

Ngân hàng có thể nhận biết qua các dấu hiệu như: danh mục tín dụng có biểu hiện tập trung cao; tín dụng tăng trưởng cao bất thường trong thời gian ngắn; tỷ lệ nợ xấu, nợ có vấn đề và nợ quá hạn tăng vượt ngưỡng cho phép; hệ thống thông tin quản lý không được nâng cấp, dễ gặp sự cố hay tin tặc tấn công.

Khi các dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro xuất hiện từ phía khách hàng, ngân hàng cần nhận biết được khả năng xảy ra rủi ro để có thể đưa ra các quyết định ứng phó kịp thời. Để nhận biết rủi ro, một số công việc ngân hàng cần phải thực hiện như sau:

  • Nhận biết rủi ro tín dụng trước khi cấp tín dụng: thông tin không cân xứng là tình huống phát sinh khi ngân hàng không nhận biết đầy đủ về đối tác của mình, dẫn đến

Nhn biếết ri roậủ Kim soát và x lý ri roểửủ Đo lng ri roườủ

Qun tr ri roảịủ

quyết định cấp tín dụng cho các khách hàng có điều kiện dưới tiêu chuẩn. Sự tồn tại thông tin không cân xứng dẫn đến lựa chọn đối nghịch xuất hiện trước khi giao dịch cấp tín dụng được thực hiện. Những người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực nhiệt tình trong việc tìm kiếm khoản vay. Một số dấu hiệu rủi ro lựa chọn đối nghịch như: khách hàng mong muốn vay tiền bằng mọi giá như sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao bất thường; khách hàng không xem xét các điều khoản của hợp đồng một cách cẩn thận và chu đáo, dễ dàng chấp nhận các điều khoản ngân hàng đưa ra cho dù nó có thể bất lợi cho người vay.

- Nhận biết rủi ro tín dụng sau khi cấp tín dụng: khách hàng chậm trễ, né tránh, cản trở việc cán bộ ngân hàng kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh, kiểm tra sau vay. Các biểu hiện như không nghe điện thoại, cử người không có trách nhiệm tiếp khách, viện cớ bận, đi công tác, khất lần trong các cuộc hẹn với ngân hàng; khách hàng không cung cấp những thông tin bổ sung sau vay mà ngân hàng yêu cầu, sử dụng vốn sai mục đích, tự ý chuyển giao tài sản đảm bảo cho người khác sử dụng, cung cấp tài liệu thông tin sai sự thật, không trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận; khách hàng thường xuyên xin gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.

1.3.4. Đo lường rủi ro tín dụng Sau khi RRTD được nhận biết, khâu tiếp theo trong quy trình quản trị RRTD là tiến hành đo lường (lượng hóa) RRTD. Đo lường rủi ro là giai đoạn quan trọng, cần có sự kết hợp tổng hòa của rất nhiều yếu tố như quy trình nghiệp vụ, con người và công nghệ,... để tạo thành hệ thống đo lường rủi ro.

Đo lường RRTD giúp góp phần tính toán vốn kinh tế cho ngân hàng. Vốn kinh tế được xác định bằng phần tổn thất ngoài dự tính (Unexpected Loss – UL), theo đó UL sẽ được bù đắp bằng vốn tự có của ngân hàng. Xác định được rủi ro chính xác sẽ giúp hình thành một tấm đệm vốn tự có đủ lớn nhằm đối phó với các tổn thất không thể dự tính có khả năng xảy ra.