Caác doanh nghiệp hay áp dụng thông tư nào năm 2024

Hỏi:

Kính gửi Bộ Tài Chính Theo Thông tư số 132/2018/TT-BTC quy định về doanh nghiệp siêu nhỏ: DN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ được coi là DN siêu nhỏ khi đáp ứng chỉ tiêu: Số lao động tham gia BHXH bình quân nhỏ hơn hoặc bằng 10 người và tổng doanh thu của năm <= 10 tỷ VNĐ hoặc Tổng nguồn vốn <=3 tỷ đồng. Đơn vị của tôi có số lao động là 4 người, doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm và tổng nguồn vốn nhỏ hơn 3 tỷ đồng, Công ty kê khai và nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Vậy khi lập Báo cáo tài chính năm gửi các cơ quan chức năng thì tôi có được lập BCTC theo mẫu của DN siêu nhỏ mẫu B01-DNSN (TT133/2016/TT-BTC) hay không? Hay DN phải lập BCTC theo mẫu của DN nhỏ mẫu B01-DNN (TT133/2016/TT-BTC). Kính mong quý Bộ hướng dẫn để chúng tôi thực hiện đúng quy định.

17/11/2021

Tại các Điều 5, 6, 7, 8, 9 Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy định chi tiết các tiêu chí và cách xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa).

Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Thông tư số 132/2018/TT-BTC ngày 28/12/2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán cho doanh nghiệp siêu nhỏ quy định:

“3. Doanh nghiệp siêu nhỏ có thể lựa chọn áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Thông tư số 133/2016/TT-BTC ngày 26/8/2016 của Bộ Tài chính cho phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.

4. Doanh nghiệp siêu nhỏ phải áp dụng chế độ kế toán nhất quán trong một năm tài chính. Trường hợp trong năm tài chính, doanh nghiệp có những thay đổi dẫn đến không còn thuộc đối tượng quy định tại Điều 2 Thông tư này thì được áp dụng Thông tư này cho đến hết năm tài chính hiện tại và thực hiện thay đổi chế độ kế toán kể từ năm tài chính kế tiếp.”

Căn cứ vào các quy định nêu trên, trường hợp doanh nghiệp của quý độc giả thỏa mãn tiêu chí là doanh nghiệp siêu nhỏ thì tùy theo đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý, doanh nghiệp có thể lựa chọn áp dụng chế độ kế toán doanh nghiệp siêu nhỏ ban hành theo Thông tư số 132/2018/TT-BTC hoặc chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Thông tư số 133/2016/TT-BTC. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp lựa chọn áp dụng chế độ kế toán ban hành theo văn bản pháp lý nào (Thông tư số 132/2018/TT-BTC hoặc Thông tư số 133/2016/TT-BTC) thì biểu mẫu báo cáo tài chính sẽ thực hiện theo hướng dẫn tại văn bản pháp lý đó.

Ông Đậu Anh Tuấn, trưởng ban pháp chế của VCCI, trình bày báo cáo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021 - Ảnh: Đ.TH.

Ông Đậu Anh Tuấn, trưởng ban pháp chế, Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết tại hội thảo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021, do VCCI tổ chức, ngày 29-3.

Báo cáo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021, ghi nhận từ 1-1-2016 đến ngày 20-7-2020, số lượng thông tư chiếm hơn 68% tổng số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.

Trung bình mỗi luật có 6,8 nghị định, 1,8 quyết định của Thủ tướng và có tới 25,8 thông tư thông thường, 1,9 thông tư liên tịch hướng dẫn.

Với số lượng áp đảo so với các văn bản quy phạm pháp luật khác, thông tư có vai trò vô cùng quan trọng khi hiện thực hóa các chính sách của nhà làm luật và đang tác động rất lớn đến môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta, ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.

Theo VCCI, hiện tượng thông tư ban hành điều kiện kinh doanh tuy không còn nhiều như trước nhưng vẫn còn, đặc biệt là tình trạng lạm dụng ban hành thông tư, có trường hợp không nhất thiết cần thông tư nhưng các cơ quan nhà nước vẫn ban hành.

Ở một số ngành, lĩnh vực còn có hiện tượng việc thực thi quy định pháp luật phụ thuộc quá nhiều vào thông tư. Ví dụ, có đến hơn 70 thông tư hướng dẫn Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Hội thảo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021 (chụp qua zoom) - Ảnh: Đ.T.

Báo cáo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021 cũng khẳng định nếu rà soát hệ thống pháp luật kinh doanh, không khó để tìm ra các thông tư đang "cài cắm" điều kiện kinh doanh. Ví dụ thông tư 28 năm 2018, quy định về điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần; giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Thông tư 03 năm 2018, quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô.

Một dạng "ẩn" điều kiện kinh doanh khác là các quy định về tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ cho cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác, cũng được VCCI đề cập trong báo cáo dòng chảy kinh doanh năm nay.

Ví dụ thông tư 78 năm 2021 do Bộ Tài chính ban hành quy định các tổ chức cung cấp giải pháp hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế. Theo đó, tổ chức cung cấp dịch vụ nhận, truyền, lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử phải đáp ứng các tiêu chí về chủ thể pháp lý, tài chính, nhân lực, kỹ thuật.

Tổng cục Thuế sẽ lựa chọn các tổ chức đáp ứng đầy đủ các điều kiện và ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ nhận, truyền, lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử với cơ quan thuế.

Cung cấp dịch vụ về hóa đơn điện tử là một ngành nghề kinh doanh, nhưng để được sự đồng ý này, các tổ chức cung cấp dịch vụ về hóa đơn điện tử phải đáp ứng các điều kiện/tiêu chí theo quy định. Như vậy, xét về bản chất, các quy định về tiêu chí lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ về hóa đơn điện tử là một dạng của điều kiện kinh doanh, VCCI nhấn mạnh.

Trong khi, theo quy định của Luật đầu tư 2020, cung cấp dịch vụ về hóa đơn điện tử không phải là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

"Điều này đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả của hoạt động kiểm soát việc ban hành các điều kiện kinh doanh ở thông tư và lo ngại tình trạng ban hành điều kiện kinh doanh một cách tràn lan như trước đây quay trở lại", ông Đậu Anh Tuấn nhận định.

Để cải thiện chất lượng ban hành thông tư của các bộ, ngành thời gian tới, VCCI cho rằng cần tập trung vào các giải pháp như minh bạch quy trình xây dựng thông tư, thống nhất tiêu chí về điều kiện kinh doanh, quy định rõ thế nào là điều kiện kinh doanh, và phải quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan soạn thảo ban hành thông tư.

Với đặc thù của hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, phần lớn quy định tại luật, pháp lệnh, nghị định sẽ không thể áp dụng ngay trên thực tế mà phải chờ thông tư hướng dẫn, thậm chí phải giải thích tại các công văn. Nên một quy định tốt ở thông tư, hướng dẫn rõ ràng, phù hợp với tinh thần của các quy định tại nghị định, pháp lệnh, luật, sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và ngược lại.

Chủ đề