Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Thay vì có răng cửa, răng hàm và răng nanh, cá mú bông Thái Bình Dương có hàng trăm chiếc răng sắc nhọn siêu nhỏ.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024
Miệng cá mú bông Thái Bình Dương chứa đầy răng. (Nguồn: Getty)

Một loài cá có tên là cá mú bông Thái Bình Dương có tổng cộng 555 chiếc răng xếp kín trong 2 bộ hàm.

Một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng những con cá này có tốc độ rụng răng đáng kinh ngạc, với khoảng 20 chiếc mỗi ngày.

"Mọi bề mặt xương trong miệng của chúng đều được bao phủ bởi răng," tác giả Karly Cohen, nghiên cứu sinh tiến sỹ sinh học tại Đại học Washington cho biết.

Cá mú bông Thái Bình Dương (Ophiodon elongatus) là loài cá săn mồi được tìm thấy ở bắc Thái Bình Dương. Loài cá này có thể dài tới 50cm khi trưởng thành, một số loại có thể đạt tới chiều dài 1,5m.

Thay vì có răng cửa, răng hàm và răng nanh, những con cá này có hàng trăm chiếc răng sắc nhọn và siêu nhỏ. Vòm miệng của chúng cũng được bao phủ bởi hàng trăm chiếc răng.

Đằng sau hàm chính còn có một hàm phụ khác, gọi là hàm yết hầu, mà loài cá này sử dụng như cách con người dùng răng hàm.

[Con sông hẹp nhất thế giới ở Trung Quốc chỉ rộng vài centimet]

Răng của một động vật có thể tiết lộ cách thức và loại thực phẩm mà chúng ăn. Răng chính là “hiện vật phong phú nhất trong hồ sơ hóa thạch với nhiều loài,” Cohen nói.

Cá vốn rụng rất nhiều răng, nhưng vấn đề mà Cohen đặt ra là không biết chính xác loài cá này rụng bao nhiêu cái răng.

Cohen và Emily Carr, sinh viên sinh học tại Đại học Nam Florida, đã nuôi 20 con cá mú bông Thái Bình Dương tại phòng thí nghiệm của Đại học Washington.

Vì răng của cá mú bông rất nhỏ nên việc tìm hiểu xem những con cá này rụng răng nhanh như thế nào không hề đơn giản. Do đó, họ đặt cá mú bông vào một bể chứa màu đỏ để nhuộm răng cá.

Sau đó họ chuyển các con cá này sang một bể chứa màu xanh để nhuộm răng thêm một lần nữa.

Sau đó, Carr đặt xương răng dưới kính hiển vi và tính toán tỷ lệ giữa răng màu đỏ với răng xanh trên tổng số răng có trong miệng cá mú bông. Cô đếm được hơn 10.000 chiếc răng rụng của 20 con cá.

Từ đó, họ kết luận loài cá này mất trung bình khoảng 20 chiếc răng mỗi ngày. Răng mọc ở hàm yết hầu rụng nhanh hơn nhiều so với răng mọc ở các bộ phận khác./.

Không chỉ cá mập mới gây ám ảnh với hàm răng đáng sợ, có nhiều sinh vật biển dường như được tạo hóa sinh ra để đem đến ác mộng cho con người.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Cá mút đá biển

Sinh vật kỳ quái này không có hàm nhưng lại sở hữu rất nhiều răng. Cá mút đá biển là động vật ký sinh. Nhờ hàng trăm chiếc răng sắc nhọn, chúng có thể dễ dàng tấn công và ăn thịt một con cá lớn.

.jpg)

Cá mập yêu tinh

Dù được đặt tên là cá mập, sinh vật biển này trông không hề giống cá mập chút nào. Chúng là loài rất hiếm và có thể dài đến 3 mét.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Cá hổ Goliath

Loài thú săn mồi đáng sợ này sống ở Congo. Chúng có thể dài tới 1 mét, nặng 50kg và luôn sẵn sàng ăn mọi sinh vật lọt vào tầm ngắm.

.jpg)

Cá rắn lục

Cá rắn lục không có nhiều răng, nhưng mỗi chiếc răng đều vô cùng sắc nhọn. Loài sinh vật biển này có kích thước khá nhỏ nên phần lớn nạn nhân bị nó cắn có cơ may sống sót.

.jpg)

Cá răng nanh

Loài cá này có cùng tên gọi với con cá chình ở trên bởi nó cũng sở hữu những chiếc răng nhọn không kém.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Rùa da

Bạn có thể không tin hàm răng trong hình thuộc về một con rùa nhưng đó là sự thật. Rùa da có thể dài hơn 2 mét, bởi vậy những chiếc răng của chúng cũng không hề nhỏ.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Cá rồng đen

Loài cá này sống ở những vùng nước sâu dưới đáy biển, nơi chúng có thể tự phát sáng để thu hút con mồi.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Cá nhám búa

Tuy có kích thước khá nhỏ nhưng hàm răng cực sắc vẫn đủ giúp cá nhám búa săn cá ngừ, cá heo và cả những loài cá mập khác.

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024

Ốc Eastern Beaded Chiton

Kích thước nhỏ xíu của loài ốc này không ngăn cản chúng trở thành sinh vật có hàm răng cứng nhất hành tinh.

Cá hố (danh pháp hai phần: Trichiurus muticus hay Trichiurus lepturus) là loài cá xương, sống ở biển thuộc họ cá Trichiuridae. Cá thuộc loại cá dữ, nổi lên tầng trên kiếm ăn vào ban ngày, và trở lại tầng đáy ban đêm, ăn các động vật như tôm, cá mực. Cá hố có giá trị dinh dưỡng cao và là nguyên liệu cho nhiều món ăn được ưa chuộng trên thế giới. Chúng còn được gọi là Cá đao, Cá hố đầu rộng.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài pháp danh khoa học, cá có tên gọi chính thức theo danh mục của Tổ chức Nông Lương (FAO): Largehead hairtail (Anh-Mỹ); Poisson-sabre commun (Pháp); Pez sable (Tây Ban Nha). Trung Quốc gọi là Bai-dai-yu (Bạch đai ngư), tiếng Nhật: Tachinou-o, Tachiuo, tiếng Đức: Haarschwanz. ở Úc: Australian hairtail, Frost fish, Canada: Scabbard fish, Cutlass fish, Sabre, Pez Chinto. ở Mỹ: Cutlass fish, Atlantic cutlass fish, Hairtail, Ribbon fish, Scabbardfish....

Ở Việt Nam, tên chính thức là cá hố theo 'Danh mục cá biển xuất khẩu của bộ Thủy Sản Việt Nam', cá còn có các tên địa phương như cá đao, cá hố đầu rộng...

Đặc điểm và phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Cá hố có thân hình dài (trung bình từ 60–90 cm) rất dẹt một bên, dài như một cái dải lưng quần, không có vẩy, giống dạng lươn, mồm nhọn nhô ra phía trước, mắt to, miệng rộng có nhiều răng tách biệt thành răng lớn và răng nhỏ ở cả hai hàm. Vây lưng rất dài có 10-11 tia cứng, tiếp theo là một rãnh; phần thứ nhì của vây lưng có 1 tia cứng và 27-30 tia mềm. Vây ngực ngắn. Không có vây bụng, vây đuôi rất nhỏ. Toàn thân cá màu xanh lam như màu thép có ánh bạc. Phần bụng và các vây như vây ngực, vây bụng, vây đuôi màu xậm hơn. Màu chuyển sang xám bạc khi cá chết.

Cá hố sinh sống ngoài khơi và ven bờ, ở tầng giữa và tầng trên, thường sống ở độ nước sâu từ 45- 60 sải tay. Cá tập trung thành đàn, nổi lên mặt vào mùa sinh sản, kiếm mồi rồi xuống sâu hơn. Trong mùa sinh sản, mỗi cá mái có thể sinh khoảng 130 ngàn trứng. Trứng nhỏ, có đường kính 1.6-1.9 mm, trôn nổi và nở thành cá bột sau 3-6 ngày. Cá bột dài 5.5-6.5 mm. Mùa sinh sản kéo dài trong các tháng từ 6 đến 10, cao điểm vào tháng 8.

Cá thuộc loại cá dữ, nổi lên tầng trên kiếm ăn vào ban ngày, và trở lại tầng đáy ban đêm, ăn các động vật như tôm, cá mực.. nhỏ hơn, khi còn nhỏ chúng ăn các phiêu, vi sinh vật. Cá trưởng thành sau 2 năm, đạt độ dài 30 cm và chuyển sang ăn cá nhỏ hơn. Cá có thể lớn, dài đến trên 2m, nặng 5 kg và sống trên 15 năm. Theo các ngư dân, cá hố to nhất chỉ chưa đến 10 kg tuy vậy cá có thể có chiều dài lên đến 4m, các ngư dân ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc đã bắt được một con cá hố dài 4m, nặng 18,5 kg ngư dân ở vùng Kê Gà, Bình Thuận cũng trông thấy cá hố khổng lồ dài gần 3m, thân rộng gần 30 cm và nặng tới 27 kg.

Cá hố có mặt hầu như tại mọi vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tại Việt Nam cá tập trung trong vùng biển miền Trung, từ Quảng Bình xuống Quy Nhơn, Quảng Ngãi...

Giá trị[sửa | sửa mã nguồn]

Cá hổ kình trưởng thành có bao nhiêu chiếc răng năm 2024
Cá hố đông lạnh xuất khẩu

Cá hố là nguồn thu nhập chính của ngư dân một số vùng ở Việt Nam, một số nơi việc câu cá hố trở thành một nghề, sản phẩm cá hố có thể dùng để xuất khẩu đặc biệt là cá hố trắng xuất khẩu hiện có giá cao (70.000-75.000 đồng/kg)

Cá hố, tuy thân mỏng, it thịt nhưng khi tươi tương đối chắc, trở thành mềm hơn khi nâu chín, ít dầu, dễ lóc xương, cắt thành từng miếng cỡ 5 cm, có thể được dùng dưới các dạng ăn tươi, ướp lạnh và phơi khô. Thịt cá hố, tương đối rẻ, rất được ưa chuộng tại các quốc gia vùng Đông Nam Á, Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên. Tại Nhật, cá được gọi là tachiuo, ăn dưới dạng nướng hay ăn sống kiểu sashimi. Tại Hàn Quốc, cá được gọi là Galchi, món ăn đặc biệt Galchi Jorim là món cá hố hấp (Korean steamed hairtail), chưng với nước tương (suy sauce), củ cải trắng, hành lá, và gia vị. Ở Trung Hoa có món ăn nổi tiếng 'Thượng Hải Bạch đới ngư' hay Fragrant creamed hairtail, Shanghai style, cá được ướp rượu, hương liệu và nấu với nhiều gia vị như tỏi, ớt, tiêu.. Vài món khác như cá hố chưng (Braised Hairtail in Soy sauce), Khô cá hố chiên dòn (Dry fried hairtail) cũng được xem là các món 'đặc biệt' tại các nhà hàng Hồng Kong.

Việt Nam có nhiều món ăn thông thường từ cá hố như kho tiêu, kho với nấm bào ngư, kho bổi hay sốt cà, nấu canh chua. Món ăn dân gian miền Trung truyền thống là 'Cá hố muối sư'. Dân nhậu rất thích món 'Gỏi khô cá hố': Khô cá hố nướng hay chiên xé nhỏ trộn với dưa leo, rau sống. Cá hố chế biến được nhiều món ăn như kho, nấu canh ngót, thịt cá hố bùi bùi và ngọt. Một số món ăn từ nguyên liệu là cá hố như: cá hố kho bổi cá hố kho cà chua, cá hố muối sư.

Trong văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Trong văn chương bình dân Việt Nam, cá hố được dùng làm biểu tượng cho sự gày ốm, cao nhòng: Người gì mà khô như con cá hố, hay cho sự thiếu chững chạc: Nhí nha nhí nhô như con cá hố. Cá hố còn là cảm hứng để làm bộ phim kinh dị có tên là "Cá hố khổng lồ" hay "Cá hố ăn thịt người" (chiếu vào năm 2010) thực ra đây chỉ là tiêu đề của bộ phim, loài cá được miêu tả trong phim là cá răng đao (Piraha)