Bụt chùa nhà không thiêng có nghĩa là gì năm 2024

Cả tuần nay cộng đồng người Việt dậy sóng với một sản phẩm công nghệ cao “made in Vietnam” vừa được giới thiệu ra thị trường. Thay vì có được những khích lệ để vinh danh người Việt dùng hàng Việt, thì ngược lại bị “vạch lá tìm sâu” đến chân tơ kẽ tóc. Phải chăng “Bụt chùa nhà không thiêng” hay người Việt “xấu xí”, nhiễm văn hóa chê bai, định kiến, thích “dìm hàng”?

Một minh họa về thói xấu người Việt trên internet.

“Nội soi”

Không chỉ sản phẩm công nghệ cao “made in Vietnam” kia vừa ra mắt chừng ít phút đã có phản ứng (không phải phản hồi) mà nhìn ngược lại cứ cái gì gắn mác VN là y như rằng bị soi mói, bị “giải phẫu”, thậm chí không có tì vết thì cũng bị người ta cố tìm cho bằng được một cái lỗi gì đó rất vô duyên, thậm chí chả liên quan. Tỉ như “tôi không thích chủ nhân của nó nên tôi thấy nó xấu”, để rồi sau đó là hàng loạt lời chê bai, dè bỉu, như một cuộc đánh hội đồng, nếu không thân bại danh liệt, thì cũng khó mà ngóc đầu lên được.

Người đẹp Nguyễn Cao Kỳ Duyên ở hải ngoại từng than khó sống vì nói gì cũng chết, không nói cũng chết. “Trót” đưa lên FB mấy ảnh đi chơi giải trí là bị la: Con mẹ này giàu sao không làm từ thiện. Phản hồi là có làm từ thiện, rồi minh chứng bằng hình là bị “chửi” tiếp: Làm từ thiện phải âm thầm, sao khoe ra, cốt PR chứ gì!

Chê là một hình thức phản biện, có thể xem như là một hành động tích cực, để cho mọi sự hoàn hảo hơn, nhưng chê cũng phải cho đúng và cho trúng, nếu quá đà thì thành thói xấu, thành bệnh di căn, hết chữa. Mà chê thì hiện tại đã trở thành một trong thói xấu phổ biến của người VN, đến mức việc chê điều gì đã được (hay bị) coi đó là chuyện bình thường. Chắc ít ai nghĩ thói quen này gây ra rất nhiều hệ lụy. “Vạch lá tìm sâu”, dìm “hàng” nhau đã gần như thành một thứ văn hóa định kiến, văn hóa chê bai không từ bất cứ cái gì của VN. Nó là biến tướng của sự đố kỵ, ganh ghét, ích kỷ… Không hài lòng bất kỳ điều gì, không muốn thừa nhận ai, không muốn ai hơn mình, mà chỉ thích phê phán, phê không được thì tìm cách “dìm”, thể hiện “cái tôi” hẹp hòi, thiển cận.

NSND Đào Trọng Khánh từng bảo tôi: Chỉ có “me xừ” Thượng Đế là không bị chê! Albert Einstein từng viết: “Những tinh thần cao cả luôn luôn gặp phải sự phản đối từ những đầu óc tầm thường”.

Hãy mở rộng giới hạn

Con người luôn khao khát sáng tạo và muốn sáng tạo phải khác biệt. Nhưng còn gì buồn hơn nhiều sáng tạo luôn bị tìm cách phủ nhận, tiêu diệt ngay khi nó vừa phát lộ ở xứ ta.

“Bụt chùa nhà không thiêng”? Không hẳn vậy. Mà là vì thói xấu không muốn ai hơn mình, khi thấy ai làm được gì, nhất là những việc từ trước tới giờ không ai dám thực hiện, hay những việc không theo đường mòn thói quen, những sáng tạo mới mẻ…, thì bằng mọi cách chê, không thừa nhận, thậm chí hủy diệt nó từ trứng nước. Ừ, thì lần đầu tiên VN có hàng công nghệ cao, chứng tỏ sức sáng tạo và trí tuệ người Việt đâu đến nỗi kém cỏi, có thể “sánh ngang với các cường quốc năm châu”. Ừ, thì có thể nó có chất lượng chưa bằng vai phải lứa với cùng chủng loại của các cường quốc công nghệ cao, các tập đoàn “có sừng có mỏ” danh tiếng, nhưng tại sao không khuyến khích, khích lệ và động viên, như một sự thân thiện để chào mừng một thành công của người VN nói chung, mà lại huy động cả một lực lượng hùng hậu là truyền thông “đánh” hội đồng, gần như là tẩy chay nó? Lại còn gán cho nó khá nhiều “lỗi”, từ lỗi “ăn xin” đến lỗi “ăn cắp”, thậm chí miệt thị bằng cách gọi tên nó bằng tiếng lóng khiếm nhã về giới tính.

Tại sao không ai nghĩ, sản phẩm “Made in Vietnam” sẽ là một bước hạn chế sản phẩm cùng loại nhập vào VN, tiết kiệm lượng ngoại tệ nhập hàng, mà quan trọng nhất, nếu sản phẩm được người Việt tin dùng, thì đây là một cách giải quyết công ăn việc làm của bao nhiêu người, lợi nhuận thu về là của người Việt hưởng. Tại sao không tìm những ưu điểm để động viên, để cùng tìm giải pháp tích cực cho hoàn thiện hơn, lại đi so sánh với bên ngoài, để phủ nhận những gì gọi là “made in Vietnam”? Rồi “đánh” cho sập luôn, bất chấp những thiệt hai. Chẳng phải “Bụt chùa nhà không thiêng” mà là tính xấu không thích người “đồng bào” mình lại hơn mình, nên phải làm sao xóa bỏ hình ảnh đi mới hả dạ.

Văn hóa chê của người Việt tưởng chừng chỉ là thói xấu trong tính cách, nhưng hệ lụy phát sinh lại làm cho xã hội kém phát triển nếu cứ để văn hóa chê này lộng hành ở mọi mặt trong đời sống cộng đồng. Chính cái văn hóa chê này mà làm thui chột đi những sáng tạo, sáng kiến, phát minh tiến bộ, hiện đại, kìm hãm những tài năng của đất nước.

Thiết nghĩ trong mỗi cá nhân chúng ta, cũng nên “uốn lưỡi” nhiều lần trước khi mở miệng chê điều gì, chê ai…, để “Bụt chùa nhà phải thiêng hơn Bụt chùa người”.

Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu.

Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Maccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, nơi quê quán của Người, những người nghe cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: "Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại nếm tin này khi kể lại ý kiện sau đây của những học giả Do Thái: "Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêsia" (Dial. 110,1).

Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét; mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin Mừng Gioan tường thuật: "Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả", nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa" (Jésus, un homme de Nagiareth, Cerf, 1996, trang 84).

- Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: "Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?" (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa).

- Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: "Ông ta không phải là con bà Maria sao?”

- Họ biết bà con họ hàng của Người: "Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con cùng xóm với chúng ta sao?”.

Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ ‘hoàn toàn vấp ngã’ (sát nghĩa là bị xì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.

2. Đức Giêsu “ngạc nhiên" vì họ cứng lòng tin và đành bó tay.

- Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa Nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa 5,1-20), cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, ‘ngạc nhiên’ vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Maccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó? Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì "phép lạ" mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ "Bụt nhà không thiêng" mà kết luận rằng: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.

- Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; mà còn mở ra việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho ‘các làng chung quanh’ loan báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại.

- Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Maccô thành hai phần rõ rệt.

+ Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề nhân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: "Vậy người này là ai?”.

- Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31 - 35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Maccô 1 5,39).

Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: "ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao? Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa.

+ Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).

BÀI ĐỌC THÊM.

  1. “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin”

(Cahiers-Evangile, số 1/2 trang 53).

Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây.

“Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin" (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào.

Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ.

Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: "Sao nhát thế”. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?" (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca ghi nhận (Mt 8,10, Lc 7,9) Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi" (6,4). Chỉ có mình Máccô, nhấn mạnh và xác định rõ là "giữa đám bà con thân thuộc". Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ "ai là mẹ tôi" đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người.

Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với Tôi" (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.

  1. “Ta biết người ấy quá mà"

(Đức Cha L.Daloz trong "Qui don est-it?", Desclée de Brouwer, trang 37-38).

"Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình. Ở giữa đám bà con, mà Người phải "lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ. Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì "rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, "chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt. Bởi đâu ông ta được như thế”. Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?". Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?"

  1. "Chỉ có tin với tin"

(G.Bessière, trong "Dieu si proche. Năm B", DDB, trang 120-121).

Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!.

Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: "Ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình... Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin; chúng ta đây "có" (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp".

Chủ đề