Biện pháp bảo hộ công dân là gì năm 2024

Currently, there are about 6 million Vietnamese in all continents of the world. With the increasing number of Vietnamese migrating abroad with various purposes, there will be need for new requirements and tasks for the protection of Vietnamese migrants abroad. Therefore, a comprehensive and extensive evaluation of the legal issues related to the migration of Vietnamese abroad and citizen protection is required. Within the scope of this paper, the author focuses on analyzing the current legal framework for protection of the interests of Vietnamese migrants abroad. Then, the author gives some opinions and recommendations on this issue.

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân vui mừng đón Thứ trưởng Đoàn Xuân Hưng tại sân bay sau chiến dịch giải cứu LĐ VN từ Lybia thành công, tháng 3/2011.

Trợ giúp mọi mặt

Trong Luật Quốc tế hiện đại, bảo hộ công dân (BHCD) được hiểu (theo nghĩa hẹp) là việc quốc gia thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiến hành các hoạt động nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài khi các quyền và lợi ích này bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ở nước ngoài đó. Còn theo nghĩa rộng thì BHCD không chỉ là việc quốc gia can thiệp để bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài mà còn bao gồm cả các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà quốc gia dành cho công dân nước mình khi ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp không có hành vi xâm hại tới công dân của nước này.

Trên thực tế, BHCD có thể từ đơn giản như việc ra thông cáo cảnh báo người dân không đi du lịch đến một quốc gia đang có nguy cơ bị tấn công khủng bố hay đang nằm trong vòng dịch bệnh, cho đến các hoạt động phức tạp hơn như sơ tán hàng chục nghìn người lao động đến nơi an toàn hoặc về nước, hoặc giải cứu các ngư dân khỏi tay bọn cướp biển như vụ Somalia nói trên.

Đối với Việt Nam (VN), Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người VN ở nước ngoài đã khẳng định rõ: “Việc bảo hộ những quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân VN ở nước ngoài là hết sức cần thiết, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới cũng như trong con mắt người VN ở nước ngoài, góp phần khuyến khích, động viên ngày càng nhiều hơn sự đóng góp của bà con vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Theo số liệu thống kê của Ủy ban Nhà nước về Người VN ở nước ngoài, hiện có khoảng hơn 4 triệu người VN định cư ở các nước và vùng lãnh thổ. Trong xu thế mở cửa hội nhập, số lượng công dân VN ra nước ngoài ngày càng gia tăng về số lượng và thành phần như: du học, thực tập sinh, lao động, tham quan, du lịch, hội chợ, triển lãm, buôn bán, đầu tư, kết hôn với người nước ngoài, xuất cảnh định cư, hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực… Trong đó, tại nhiều địa bàn, số lượng người Việt tăng nhanh như ở Hàn Quốc, Trung Quốc, có hàng trăm nghìn phụ nữ VN kết hôn với công dân sở tại; còn tại Australia, hiện có hơn 12 nghìn du học sinh. Ngoài ra, theo thống kê của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội có khoảng 500 nghìn lao động VN đi làm việc theo nhiều hình thức ở hơn 40 nước và vùng lãnh thổ…

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trong chương trình Dân hỏi Bộ trưởng trả lời hôm 22/7 khẳng định: “Điều đầu tiên cần biết là tất cả công dân VN ra nước ngoài đều có quyền được bảo hộ, vì vậy, khi xảy ra bất cứ vấn đề gì liên quan đến pháp lý, an toàn tính mạng, cách đối xử, hành xử… đều được sự bảo hộ của nhà nước VN. Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện (CQĐD) của VN ở nước ngoài có trách nhiệm thực hiện quyền đó cho công dân VN”.

Hành lang pháp lý

Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác bảo hộ công dân và pháp nhân VN ở nước ngoài, Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế, đáng chú ý là Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao, công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự cũng như gần 20 hiệp định lãnh sự, hiệp định kiều dân mà ta đã ký với các nước.

Chính phủ đã mở khoảng 100 CQĐD (các Đại sứ quán, Tổng Lãnh sự quán và Cơ quan Lãnh sự danh dự) ở khắp các châu lục. Với bộ máy này, công tác bảo hộ, giúp đỡ công dân ở nước ngoài đã và chắc chắn sẽ đạt được nhiều kết quả tích cực. Tại các Đại sứ quán ở địa bàn có đông lao động VN như: Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Qatar, UAE, CH Séc…, đều đã thành lập Ban Quản lý lao động.

Bộ Ngoại giao quán triệt công tác BHCD VN ở nước ngoài là một trong những trọng tâm công tác của Bộ và của CQĐD VN ở nước ngoài. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội rà soát ký kết Hiệp định lao động với các nước: Lào năm 1995, Oman năm 2007, Qatar năm 2008, LB Nga năm 2008, Kazakstan năm 2008, UAE năm 2009, Canada năm 2010… Đây là những hành lang pháp lý quan trọng, là cơ sở để bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động VN ở nước ngoài.

Về hợp tác quốc tế, để bảo vệ người lao động VN ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép VN trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) tháng 11/2007, tham gia tích cực các hoạt động tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng như tham gia các diễn đàn trong nước và quốc tế trong lĩnh vực này.

Cổng thông tin điện tử về công tác lãnh sự và di cư quốc tế do Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao quản lý (địa chỉ lanhsuvietnam.gov.vn và dicu.gov.vn) cũng đã đi vào hoạt động nhằm đáp ứng các yêu cầu cập nhật và chia sẻ thông tin, giúp mọi công dân tiếp cận và có kiến thức cần thiết khiđi nước ngoài đồng thời góp phầnđưa công tác BHCD ngày càng chuyên nghiệp hơn.

Thực tiễn đa dạng

Quán triệt phương châm “Bảo hộ chủ động, kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả”, thời gian qua, Bộ Ngoại giao tiếp tục phối hợp Bộ, ngành liên quan trong nước, với CQĐD VN ở nước ngoài giải quyết nhiều vụ việc khác liên quan đến người lao động như: nợ tiền lương; mất việc, bị tai nạn, bị chết trong khi làm việc… nhanh chóng xử lý hiệu quả, đưa người lao động an toàn về nước,như vụ 69 lao động nữ VN tại Malaysia; 40 lao động ở Ekaterinburg (Nga)... Bên cạnh đó, hàng chục thuyền viên đi làm việc theo hợp đồng trên tàu đánh cá của Hàn Quốc, Đài Loan gặp hỏa hoạn, cháy tàu bị chết, bị thương hoặc khi tàu cập cảng một số nước, đã tự ý bỏ hợp đồng, trốn lên bờ ở lại nước ngoài trái phép như một số vụ tàu Joeng Woo 1, 2, 3 ở Uruguay, New Zealand hay vụ tàu Nam Seong 06 của Hàn Quốc bị cháy ở Nhật Bản, v.v… Bộ Ngoại giao đã phối hợp với CQĐD VN ở các nơi liên quan tiến hành xác minh, cấp lại hộ chiếu cho người tiếp tục làm việc, cấp Thông hành cho những người về nước, giúp đỡ những người bị thương chữa trị, cấp cứu tại bệnh viện, đưa thi/di hài người chết về nước…

Một trong những hoạt động khác của Bộ Ngoại giao là công tác bảo hộ pháp nhân. Đơn cử việc giải quyết vụ tàu Vinalines Queen bị chìm cùng với 22 thủy thủ. Đây là một tàu hàng có trọng tải lớn, đang vận chuyển 54.400 tấn quặng ni-ken từ Indonesia đến Trung Quốc qua vùng biển ngoài khơi Philippines thì gặp bão lớn cuối tháng 12/2011. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các CQĐD VN tại Trung Quốc, Philippines, Nhật Bản và Văn phòng KT-VH VN tại Đài Bắc và các CQĐD nước liên quan nói trên và Văn phòng KT-VH Đài Bắc tại Hà Nội, đề nghị phối hợp xác định tình trạng tàu và tìm kiếm các thủy thủ. 25 ngày tìm kiếm được chia thành nhiều đợt; với nhiều phương tiện: máy bay, tàu cứu hộ; nhiều lực lượng: hải quân,lực lượng canh giữ bờ biển, cơ quan cứu nạn hàng hải. Dù mới chỉ tìm thấy thủy thủ Đậu Ngọc Hùng là người sóng sót duy nhất, sau khi được một tàu chở hàng khác của Anh vớt được, nhưng nỗ lực của Bộ Ngoại giao, CQĐD đáng được ghi nhận, bên cạnh các nỗ lực khác của Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn và một số cơ quan liên quan.

6 tháng đầu năm 2012 có hai đợt áp thấp nhiệt đới và hai cơn bão xuất hiện ở Biển Đông. Bộ Ngoại giao đã chủ động triển khai, khẩn trương phối hợp với Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ươngnắm tình hình, kịp thời gửi công hàm cho các Đại sứ quán nước ngoài liên quan tại Hà Nội, chỉ đạo CQĐD VN ở các nước có biển liền kề đề nghị họ cho phép tàu thuyền, ngư dân ta vào vùng biển nước họ tránh trú bão và tiến hành cứu hộ đối với các tàu thuyền, ngư dân bị nạn. Thời gian qua, Bộ Ngoại giao đã phối hợp giúp 776 tàu và 14.196 ngư dân trú, tránh bão an toàn.

Bên cạnh đó, phối hợp với Bộ, ngành chức năng, Bộ Ngoại giao và CQĐD VN ở nước ngoài tiến hành nhiều hoạt động khác, như: Cấp hộ chiếu, giấy tờ cho hơn 120.000 công dân tạo điều kiện cho việc đi lại, cư trú ở nước ngoài; Phối hợp với cơ quan chức năng các nước giải cứu phụ nữ, trẻ em bị lừa bán ra nước ngoài; Giúp đỡ người lao động khi bị đối xử không công bằng, bị tai nạn, rủi ro; Hỗ trợ các công ty, tổ chức giải quyết tranh chấp thương mại trong quá trình làm ăn, buôn bán với bên nước ngoài v.v... Một số vụ kiện tại tòa án nước ngoài do tranh chấp hợp đồng hay do một số đối tượng người Việt kiện các cơ quan hoặc cá nhân vì liên quan đến cái mà họ gọi là “buôn bán người” cũng đã được Bộ Ngoại giao phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý thỏa đáng.

Vấn đề đặt ra

Qua thực tiễn công tác, có thể nhận thấy việc bảo hộ đối với người VN đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân hoặc những người tự ý bỏ hợp đồng, ở lại nước ngoài làm việc trái phép, những người bị lừa đảo xuất khẩu lao động sống lang thang ở nước ngoài, phụ nữ bị lừa bán ra nước ngoài làm gái mại dâm, đang là vấn đề nan giải. Do họ không đăng ký công dân với CQĐD VN ở nước ngoài, không ai quản lý, nên khi có tai nạn, rủi ro…, chưa thể khẳng định ngay họ có phải là công dân VN hay không để tiến hành bảo hộ, giúp đỡ. Để có thể giúp đỡ, bảo hộ cho họ, CQĐD cần có một thời gian nhất định để tiến hành xác minh kể từ khi nhận được thông tin. Ngoài ra, phải tìm nguồn tài chính để chi phí và mua vé máy bay đưa họ về nước vì nguồn chi của Quỹ BHCD chủ yếu là trên nguyên tắc tạm ứng hoặc có bảo lãnh, đặt cọc.

Theo ông Nguyễn Hữu Tráng, Cục trưởng Cục Lãnh sự, công tác BHCD hiện nay thường diễn ra dồn dập, khẩn trương, đòi hỏi phải xử lý kịp thời và hiệu quả. Như sự kiện đưa trên 10.000 lao động ở Lybia về nước hay tình huống động đất, sóng thần và rò rỉ hạt nhân ở Nhật Bản khiến hàng trăm người VN rơi vào tình cảnh cần được giúp đỡ…

Bên cạnh đó, những yếu tố an ninh phi truyền thống xuất hiện ngày càng nhiều, tác động trực tiếp đến hoạt động BHCD. Như vụ tàu chở hàng và thủy thủ VN bị hải tặc Somalia bắt là sự việc VN chưa có kinh nghiệm do chưa có tiền lệ. Bên cạnh đó, VN cũng phải xử lý nhiều vụ việc liên quan đến các hoạt động di cư bất hợp pháp, buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em có liên quan đến nạn nhân là người VN.

Đồng thời với việc tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn vào các thương vụ làm ăn ở bên ngoài, các doanh nghiệp VN cũng phải đối đầu với thực trạng gia tăng các vụ kiện tụng, tranh chấp pháp lý ở tòa án nước ngoài trong khi bản thân doanh nghiệp và cơ quan chức năng còn thiếu kinh nghiệm và lúng túng trong xử lý.

Ngoài ra, tác động của thông tin truyền thông, nhất là báo điện tử và mạng xã hội, một mặt đã kịp thời cung cấp thông tin về tình hình công dân VN ở nước ngoài cũng như về những biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn những thông tin chưa qua kiểm chứng, chủ quan, thiên lệch của một vài cơ quan báo chí, gây khó khăn cho công tác BHCD và hoang mang trong dư luận.

Với đặc điểm của công tác BHCD, pháp nhân diễn ra thường xuyên, rải ra trên khắp thế giới tại các địa bàn có công dân ta, nên trong thời gian tới, công tác này sẽ tiếp tục gia tăng cả ở diện rộng và chiều sâu. Các vụ việc tiếp tục tăng, mức độ phức tạp hơn, đòi hỏi phải nâng cao tính chuyên nghiệp và kiện toàn tổ chức bộ máy công tác BHCD.

Mặc dù không phải lúc nào cũng có chiến dịch lớn hay khẩn cấp, song đối với công tác này, chỉ một con tàu, một thủy thủ VN bị hải tặc bắt giữ, một công dân VN bị hãm hại ở nước ngoài cũng phải huy động cả bộ máy từ trong nước đến các CQĐD VN ở những nước liên quan, cá biệt cả với các tổ chức quốc tế. Chính vì thế, Cục Lãnh sự đã thành lập Phòng Bảo hộ công dân và pháp nhân VN ở nước ngoài. Đây cũng chính là nhằm thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng Phạm Bình Minh là “xây dựng cơ chế thường trực, phản ứng nhanh, kịp thời ứng phó với các tình huống khẩn cấp về BHCD”.

Chủ đề