Bài tập lớn thi hành án dân sự năm 2024

  • 1. CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1 NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự Có hai quan niệm cơ bản về THADS: (1) coi THADS là một giai đoạn của tố tụng dân sự; (2) coi THADS là một dạng của hoạt động hành chính – tư pháp. Đối với quan niệm thứ nhất, THADS được cho là một giai đoạn của quá trình tố tụng dân sự, vì co xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên hoạt động của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích cho đương sự. Quan điểm này thừa nhận không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của Tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng lại cho rằng THADS thực chất là hoạt động tố tụng của Tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho bản án và quyết định của Tòa án được thi hành một cách chính xác và kịp thời. Quan điểm thứ hai cho rằng THADS là dạng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Theo quan điểm này thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật, quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình đó nên bản án, quyết định của Tòa án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng. Quan điểm này được thừa nhận rộng rãi nhất do: - Thi hành án dân sự không thể là giai đoạn tố tụng đơn thuần, vì THADS có mục đích khác với mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở chỗ, mục đích của tố tụng là xác định các chứng cứ để khôi phục lại trạng thái ban đầu của sự việc. Nói cách khác, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình chặt chẽ và đảm bảo các nguyên tắc bình đẳng, công khai, dân chủ… và khi có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, THADS là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình tố tụng là quá trình đi tìm sự thật để áp dụng pháp luật; còn thi hành án là quá trình thực thi pháp luật. Ở đây, hậu quả pháp lý đã rõ, chỉ cần thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quá trình này có thể do các chủ thể phải thi hành án tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành án. - THADS cũng không đơn giản là hoạt động của các cơ quan hành chính. Thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử (tuy không phải là giai đoạn tiếp 1
  • 2. động nối liền giữa hoạt động tư pháp và hoạt động hành chính. Với tính chất là một hoạt động chấp hành, căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình THADS, cơ quan THADS và các bên có liên quan không chỉ áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng mà phần lớn là áp dụng các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp. Bên cạnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thi hành án không do luật tố tụng điều chỉnh như: kê biên tài sản, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án,… thì thi hành án còn có những quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh do luật tố tụng điều chỉnh và chi phối khác. 1.1.2 Đặc trưng của thi hành án dân sự - THADS là một dạng hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án. Hoạt động này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án và cơ quan trực tiếp thi hành án) thực hiện. - Hoạt động thi hành án được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. - Thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của cơ quan tài phán. Nó có tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án. Việc không chấp hành, chấp hành không nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử lý bằng chế tài. - Trong quá trình thi hành án, những người phải thi hành án và những người được thi hành án vẫn có thể tự thỏa thuận với nhau để tự thi hành án phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Cơ quan THADS có trách nhiệm theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thỏa thuận thi hành của các bên đương sự. Đây là một hành lang pháp lý “mở” nhằm tiếp tục đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự ở giai đoạn thi hành án. Chính tính “mở” này tạo ra những điều kiện quan trọng cho chủ trương xã hội hóa một số mặt của hoạt động THADS, giảm thiểu can thiệp, hỗ trợ từ phía Nhà nước, tăng tính chủ động của các đương sự, phù hợp với những yêu cầu của Nhà nước về nâng cao tính tích cực của công dân. - Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan THADS được lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành án (cưỡng chế, kê biên tài sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả. 1.1.3 Những nguyên tắc trong thi hành án dân sự 2
  • 3. tính tối cao các quy định về thi hành án trong Hiến pháp. Về cơ bản, Hiến pháp quy định việc chấp hành nghiêm ngặt những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án do đó không được trái với Hiến pháp và nhằm thực hiện được mục tiêu mà Hiến pháp đã đề ra. Các cơ quan THADS phải hoạt động trong khuôn khổ đó và chỉ làm những gì pháp luật cho phép, không được tùy tiện trong THADS. - Nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong thi hành án. THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, các cơ quan thi hành án phải đảm bảo và tôn trọng các quyền đó; ngoài ra, quyền tự định đoạt của các đương sự cũng phải được tôn trọng. Vì vậy, chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong THADS; đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. - Nguyên tắc nhân đạo. Trong thi hành án, đòi hỏi phải đảm bảo việc bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các loại lợi ích khác nhau, tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân. Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện rõ trong nhiều quy định của pháp luật về THADS, ví dụ như khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản để thi hành án, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ không kê biên tất cả tài sản của người đó. Đồng thời, khi kê biên tài sản, Chấp hành viên không được kê biên những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống của họ và gia đình họ; trong trường hợp người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định của Tòa án thì người đó phải tự mình thực hiện thì Chánh án Tòa án có quyền ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành. - Nguyên tắc kết hợp tự nguyện với cưỡng chế. Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận và tự định đoạt của giao dịch dân sự, trong THADS, đảm bảo và khuyến khích tự nguyện THADS là một yếu tố rất quan trọng để thi hành án có hiệu quả, ít tốn kém nhất. Trường hợp sau một khoảng thời gian luật định, các cơ quan THADS mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, cưỡng chế trả nhà… - Nguyên tắc phối hợp hành động giữa các cơ quan THADS với các cấp chính quền, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trong THADS. Thi hành án là hoạt động mang tính hành chính – tư pháp phức tạp mà hiệu quả của nó không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của các cơ quan THADS chuyên trách mà còn phụ thuộc vào sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và công dân. Trong quá trình thi hành án, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các cơ quan THADS một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, mặt khác phải phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể xã hội. Sự chỉ đạo của chính quyền địa phương đối với việc tổ chức thi hành án đang tạo điều kiện cho công tác thi hành án có hiệu quả. Trong công tác THADS, chính quyền cơ sở có nhiệm vụ giúp Chấp hành viên xác minh hoàn cảnh kinh tế của người phải thi hành 3
  • 4. lực lượng, phương tiện để cưỡng chế thi hành án. Lực lượng cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội có nhiệm vụ thực hiện những yêu cầu của Chấp hành viên liên quan đến việc thi hành án. Mối quan hệ phối hợp giữa ba cơ quan: cơ quan THADS, Tòa án, Viện kiểm sát đảm bảo hoạt động thi hành án được tiến hành hiệu quả, đúng pháp luật. 1.2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.2.1 Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời về công tác Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số 827/CV ngày 23/10/1979 của Tòa án nhân dân tối cao. Công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toà án. Trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ chức thi hành án chưa tạo được vị trí của chấp hành viên tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn khép kín trong tòa án và tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án tòa án nhân dân địa phương. Vai trò của tòa án nhân dân tối cao (và tiếp đó là Bộ Tư pháp từ 1981 đến 1992) trong việc quản lý tòa án địa phương mới dừng lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản lý đội ngũ cán bộ tòa án, cũng như việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, THA do chính quyền địa phương đảm nhiệm. Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng của tòa án vẫn dành cho công tác xét xử, còn thi hành án hầu như ít quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi hành hàng năm. 1.2.2 Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990, một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao, lần đầu tiên đã được ban hành, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế Chấp hành viên, thì chỉ có Chấp hành viên là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án quyết định của tòa án (trước đây việc Thi hành án, ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ tòa án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ Thi 4
  • 5. từng tòa án địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành viên được bổ nhiệm ở các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tòa án nhân dân quận, huyện. Với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, lần đầu tiên những quy định về thi hành án dân sự đã được pháp điển hoá. Việc tập trung thống nhất những quy định về thi hành án dân sự vào một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong việc thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định về dân sự của tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh gồm 7 chương, 43 Điều. Chương một gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) nêu lên những quy định chung về thi hành án dân sự. Chương hai gồm 4 điều (từ Điều 9 đến Điều 12) là những quy định về chấp hành viên. Chương ba gồm 10 điều (từ điều 13 đến điều 22) quy định về thủ tục Thi hành án. Chương bốn gồm 15 điều (từ Điều 23 đến Điều 37) quy định biện pháp cưỡng chế. Chương năm gồm 2 điều (Điều 38, Điều 39) quy định việc khiếu nại tố cáo hành vi trái pháp luật của chấp hành viên và kháng cáo quyết định của Chánh án. Chương sáu gồm 2 điều (Điều 40, Điều 41) quy định việc xử lý vi phạm đối với người không chịu chấp hành bản án, quyết định của tòa án. Chương bảy gồm 2 điều (Điều 42, Điều 43) là những điều khoản thi hành. Với việc ban hành Pháp lệnh năm 1989, cơ chế Thi hành án đã có bước thay đổi cơ bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của cơ quan thi hành án và chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn thi hành án dân sự. thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự. Mặc dù cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng sự chỉ đạo điều hành công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án, chấp hành viên thuộc tòa án, do tòa án trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều thuộc thẩm quyền của Chánh án. chấp hành viên với trách nhiệm là 5
  • 6. nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của tòa án”, thực ra chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử phải đồng thời là người chỉ đạo việc thi hành các phán quyết của tòa án, dẫn đến tình trạng quá tải về công việc, có nơi, có lúc chưa giải quyết kịp thời các yêu cầu thi hành án đặt ra. Hơn nữa, tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, chưa thực sự đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, khó lòng tránh khỏi sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu quả công tác này. 1.2.3 Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy Nhà nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội khoá IX thông qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho quá trình cải cách Tư pháp, trong đó công tác thi hành án dân sự được đổi mới một cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1981, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 không quy định thẩm quyền của tòa án nhân dân trong việc thi hành án. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 lần đầu tiên đã xác định việc “quản lý công tác thi hành án” là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Để thực hiện quy định của các đạo luật trên đây về công tác thi hành án, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ “chậm nhất vào tháng 6/1993”. Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành ngày 28/8/1989. Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 chính là ở các quy định về tổ chức, cơ chế thi hành án mới. Theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, tòa án có nhiệm vụ thi hành án dân sự, còn theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 thì nhiệm vụ thi hành án dân sự được chuyển cho một cơ quan Nhà nước mới thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1993, đó là hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự. Việc ra các quyết định về thi hành án trước đây thuộc thẩm quyền của Chánh án tòa án, thì nay thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án. Có thể nói, Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 21/4/1993 đã tạo ra bước ngoặt về tổ chức và hoạt động của công tác thi hành án dân sự ở nước ta, đưa công tác này sang một giai đoạn phát triển mới, đáp ứng yếu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Bắt đầu từ ngày 01/7/1993, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chính thức tiến hành theo cơ chế mới. Các cơ quan quản lí nhà nước về công tác thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự được hình thành 6
  • 7. đến các địa phương trong cả nước. So với trước đây, công tác thi hành án dân sự đã được đổi mới căn bản từ tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động. Cùng với việc hình thành hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, một cơ chế phối hợp về thi hành án dân sự cũng đã được xác lập. Trong điều kiện thực tế hiện nay phải đặt công tác thi hành án dân sự trong tổng thể hoạt động triển khai các nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội thì mới thấy hết ý nghĩa của cơ chế phối hợp này. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của UBND các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng trong hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức thi hành án dân sự đang ngày càng mở rộng và tăng cường, đồng thời thực tế hoạt động thi hành án cũng đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới có tính cấp bách cần giải quyết. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành đã phục vụ cho việc thi hành Nghị quyết của Quốc hội về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ tòa án sang các cơ quan của Chính phủ. Do Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 còn giữ nguyên các quy định của Pháp lệnh năm 1989, chỉ sửa đổi phần nội dung liên quan đến thẩm quyền của cơ quan quản lý công tác thi hành án và thủ trưởng cơ quan thi hành án, mà chưa có điều kiện sửa đổi bổ sung nhiều nội dung quan trọng khác như: biện pháp thi hành đối với bên phải thi hành án là cơ quan, tổ chức; quy định các điều kiện hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án còn nhiều sơ hở..., dẫn đến tình trạng pháp luật không được chấp hành nghiêm chỉnh, gây nên tình trạng án tồn đọng, kéo dài nhiều năm không thi hành được. Mặt khác, sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra đời, Nhà nước cũng đã ban hành một loạt văn bản pháp luật mới có liên quan đến công tác thi hành án dân sự như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty... Đặc biệt với việc ban hành Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, cơ quan thi hành án đã được giao thêm các loại việc mới, có tính đặc thù như thi hành quyết định tuyên bố phá sản, thi hành án kinh tế, lao động, hành chính... làm cho công tác thi hành án không còn mang tính chất dân sự thuần tuý như trước đây. Ngoài ra, các cơ quan thi hành án dân sự còn đang đứng trước những khó khăn về lực lượng cán bộ, về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động. Đồng thời các cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án đang đòi hỏi phải được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công cuộc cải cách Tư pháp nói chung và đổi mới công tác thi hành án nói riêng theo tinh thần các Nghị quyết Trung ương đã đề ra. 1.2.4 Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 7
  • 8. năm thi hành, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 đã bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục thi hành án dân sự chưa được tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi pháp luật thi hành án dân sự cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, ngày 14/01/2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thi hành án dân sự sửa đổi thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã có những bước tiến mới về lập pháp, theo đó quy định cụ thể, đầy đủ hơn về tổ chức các cơ quan thi hành án và thủ tục thi hành án. Cụ thể là: - Các Cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự: Theo các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 ngày 14/01/2004 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự, các cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự bao gồm: Bộ Tư pháp, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo chức năng được giao, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự với những nhiệm vụ như: giúp Chính phủ chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, nghị định về công tác thi hành án dân sự. Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện công tác thi hành án dân sự, trực tiếp quản lý hệ thống cơ quan thi hành án, quyết định việc thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án. Thực hiện thanh tra nhà nước về công tác thi hành án dân sự. Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với chấp hành viên và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của Chính phủ. Thực hiện sự phân cấp về thẩm quyền trong công tác thi hành án dân sự, UBND cấp tỉnh, cấp huyện có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong việc quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Cụ thể như: Chỉ đạo công tác thi hành án dân sự, yêu cầu cơ quan thi hành án báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương; Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị ở địa phương. Yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức kiểm tra, thanh tra; chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự... (Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004). Để cụ thể hoá thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự, tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 quy định về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự (trước 8
  • 9. về tổ chức các cơ quan thi hành án được quy định tại Nghị định số 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên). Theo Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ thì các quan quản lí nhà nước về công tác thi hành án dân sự bao gồm: Cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (Cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước). Sở Tư pháp (Cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trên địa bàn cấp tỉnh; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối cơ quan thi hành án ở địa phương theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Phòng Tư pháp (Cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý về công tác thi hành án dân sự trên địa bàn cấp huyện). Đồng thời, để phân định rõ thẩm quyền quản lý công tác thi hành án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, sự phân cấp, uỷ quyền trong quản lý nhà nước giữa Bộ Tư pháp với UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp về công tác thi hành án dân sự. Như vậy, các văn bản pháp luật nêu trên đã quy định tương đối toàn diện tổ chức các quan quản lí nhà nước về thi hành án dân sự. So với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 thì đã có bước tiến bộ rõ rệt trong việc phân cấp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của UBND cấp tỉnh và cấp huyện, tạo cơ sở pháp lý để hệ thống các cơ quan này hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn qua ba năm thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 cũng cho thấy có những vướng mắc, bất cập trong chế định về các cơ quan quản lí nhà nước về thi hành án dân sự. Ở một số nơi, các cấp chính quyền do chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, vai trò của công tác thi hành án nên chưa làm tròn trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương, thậm chí có nơi còn có sự can thiệp, yêu cầu hoãn thi hành án không đúng pháp luật... nhất là đối với những việc thi hành án liên quan đến trách nhiệm thi hành án của chính UBND hoặc tổ chức, doanh nghiệp có vai trò quan trọng ở địa phương. Việc giao cho cơ quan tư pháp giúp UBND cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về thi hành án ở địa phương cũng chưa hợp lý vì đây không phải là những cơ quan trực tiếp tổ chức việc thi hành án nên không nắm chắc được các vụ việc cụ thể, không thể tham mưu kịp thời, đầy đủ cho UBND về những vấn đề cần thiết liên quan đến công tác thi hành án. Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay chúng ta có thể rút ra một số nhận xét cơ bản: + Một là, dù trải qua các thời kỳ khác nhau, nhiệm vụ của các tổ chức thi hành án dân sự được pháp luật quy định (dù dưới hình thức Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã, 9
  • 10. hay là nhân viên thi hành án, chấp hành viên được đặt tại các tòa án hoặc cơ quan thi hành án) vẫn luôn luôn có một điểm chung không thay đổi đó là đều thi hành các bàn án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. + Hai là, thi hành án dân sự dù tồn tại bất kỳ dưới hình thức nào, dù là do tòa án trực tiếp tiến hành hay do cơ quan thuộc Chính phủ đảm trách, đều luôn có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của tòa án, đặc biệt hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hoạt động xét xử. + Ba là, ý nghĩa, vai trò của công tác thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, sâu rộng hơn, chiếm vị trí ngày càng xứng đáng trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam. Từ chỗ tổ chức thi hành án chỉ do Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã (1945-1950), thẩm phán huyện (1950-1959); nhân viên thi hành án, chấp hành viên đặt tại các tòa án địa phương (1960-1993) thực hiện, đến nay chúng ta đã có một hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự (cơ quan thi hành án) gồm 64 thi hành án dân sự cấp tỉnh, hơn 660 thi hành án dân sự cấp huyện, chưa kể hệ thống thi hành án trong quân đội. Từ chỗ chỉ được thể hiện trong một vài văn bản pháp luật dưới hình thức thấp (Thông tư, Điều lệ tạm thời...), đến nay đã trở thành hệ thống pháp luật thi hành án dân sự với hàng chục văn bản từ pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng, Chính phủ, thông tư hướng dẫn... và hiện nay chúng ta đang xây dựng dự án Bộ luật thi hành án với mức độ pháp điển rất cao, điều chỉnh một cách toàn diện các lĩnh vực thi hành án, trong đó có thi hành án dân sự. + Bốn là, xu hướng chung của pháp luật thi hành án dân sự ngày càng thể hiện rõ nét nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình thi hành án. Ngay từ đầu, việc thi hành án hoàn toàn dựa trên cơ sở yêu cầu của đương sự, sau đó có một thời gian khá dài (từ năm 1950 đến năm 1989) nguyên tắc tự định đoạt của đương sự bị phủ nhận, thay vào đó là việc Nhà nước chủ động hoàn toàn trong hoạt động thi hành án. Việc thi hành án được tiến hành không phụ thuộc vào ý chí của người được thi hành án. Nhưng từ năm 1990 đến nay, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án dân sự lại được khôi phục và thể hiện như là xu thế tất yếu và sẽ tiếp tục tồn tại lâu dài trong tương lai. + Năm là, quá trình phát triển của pháp luật thi hành án dân sự cho thấy xu hướng xã hội hoá trong lĩnh vực thi hành án dân sự ngày càng được mở rộng biểu hiện trên một số nét sau: Các việc do Nhà nước chủ động thi hành ngày càng bị thu hẹp lại, đồng thời việc thi hành án do đương sự yêu cầu ngày càng chiếm vị trí chủ yếu trong thi hành án dân sự. 10
  • 11. yêu cầu, người được thi hành án còn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ, tình hình tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, khi trả đơn yêu cầu thì phải theo dõi, phát hiện tài sản của người phải thi hành án để yêu cầu trở lại. Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án. Nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện trong quá trình thi hành án. Người được thi hành án phải chịu phí thi hành án... 1.2.5 Thời kỳ từ khi thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đến khi sửa đổi bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 Thể chế hóa chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về công tác thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thi hành án dân sự. Trên cơ sở các quy định của Luật, thời gian qua, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò của công tác thi hành án dân sự được nâng lên rõ rệt; công tác thi hành án dân sự nhận được sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính quyền địa phương thông qua việc các cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm trực tiếp báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ (06 nghị định của Chính phủ, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 thông tư, 15 thông tư liên tịch...); việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự theo quy định của Luật cơ bản đã hoàn thành; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan thi hành án dân sự được cải thiện một bước; việc xây dựng trụ sở, kho vật chứng các cơ quan thi hành án dân sự cũng được quan tâm thực hiện, cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh; công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp được tăng cường và triển khai ngày càng bài bản. Nhờ đó, kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực: Việc phân loại án ngày càng chính xác, tỷ lệ số việc và tiền có điều kiện thi hành trên tổng số việc và tiền phải thi hành của các năm tăng đáng kể (năm 2010: đạt tỷ lệ 65,7% về việc và 36,46% về tiền; năm 2011: đạt tỷ lệ 68,15% về việc và 37,7% về tiền; năm 2012: đạt tỷ lệ 69,32% về việc và 30,66% về tiền; năm 2013: đạt tỷ lệ 77,81% về việc và 56,1% về tiền); tỷ lệ việc thi hành xong trong số việc có điều kiện thi hành của các năm tăng dần (năm 2010: đạt tỷ lệ 86,35% về việc và 80,1% về tiền; năm 2011: đạt tỷ lệ 88% về việc và 76,1% về tiền; năm 2012: đạt tỷ lệ 88,58% về việc và 76,98% về tiền; năm 2013: đạt tỷ lệ 86,53% về việc và 73,17% về tiền); trình tự, thủ tục giải quyết các việc thi hành án dân sự được đơn giản hóa một bước, cơ bản được tuân thủ chặt chẽ; các mặt công tác khác như thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo dần đi vào nền nếp, góp phần hỗ trợ tích cực để hoàn thành các chỉ tiêu thi hành án được giao. Triển khai Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội về thi hành Luật thi hành án dân sự, đến nay, việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại một số địa phương đã đạt kết quả tích cực, được xã hội đón nhận. 11
  • 12. kết quả đạt được, công tác thi hành Luật thi hành án dân sự cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém, trong đó nổi lên là: Kết quả thi hành án dân sự có tăng lên so với trước khi có Luật nhưng chưa thật bền vững (năm 2013 đạt thấp hơn so với năm 2012 và chưa hoàn thành chỉ tiêu theo Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội); lượng án tồn đọng tuy có giảm nhưng số việc và tiền chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn và có xu hướng tăng lên ; việc phân loại án ở một số cơ quan thi hành án dân sự vẫn chưa thật chính xác, vẫn còn tình trạng chuyển từ án có điều kiện sang án không có điều kiện, trong khi Tòa án không nắm được bản án, quyết định mà Tòa án đã tuyên có được chấp hành đầy đủ hay không; việc tổ chức thi hành án trong nhiều vụ việc còn chưa kịp thời, gặp khó khăn, vướng mắc, trong đó có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, thiếu khả thi nhưng việc trả lời của Tòa án đối với yêu cầu của cơ quan thi hành án về giải thích bản án còn chậm, nhiều trường hợp dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài; công tác phối hợp trong thi hành án dân sự tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn bất cập, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho công tác thi hành án dân sự. Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ chính các quy định của Luật thi hành án dân sự, cụ thể là: Thứ nhất, Luật thi hành án dân sự chưa xác định hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng, là khâu cuối cùng thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp, do đó, có sự cắt khúc, tách rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án. Trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án đối với việc thi hành các bản án, quyết định của mình còn hạn chế, nhất là việc giải quyết những hệ quả, vướng mắc trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án hay của Viện kiểm sát dẫn đến thay đổi nội dung các bản án đã có hiệu lực đang được thi hành hoặc đã thi hành xong; trách nhiệm theo dõi, thống kê việc thi hành các bản án, quyết định cũng chưa được Tòa án quan tâm thực hiện; thẩm quyền kiểm sát, thanh tra đối với công tác thi hành án dân sự chưa được phân định rõ ràng. Thứ hai, một số quy định về quyền, trách nhiệm của các bên trong thi hành án còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là việc Luật quy định người được thi hành án có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án, gây khó khăn cho người được thi hành án, nhất là việc xác minh tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó việc quy định trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh thì phải chịu chi phí đã gây tốn kém cho người dân. Thứ ba, một số quy định của Luật thi hành án dân sự về trình tự, thủ tục thi hành án còn bất cập, thiếu thống nhất, chưa đồng bộ với pháp luật có liên quan trong các lĩnh vực đất đai, nhà ở, tài chính, ngân hàng, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính..., nhất là các quy định về kê biên, phong tỏa tài khoản thi hành án, đấu giá tài sản thi hành án, xử lý tài sản thi hành án trong trường hợp là tài sản cầm cố, thế chấp; chưa quy định 12
  • 13. xử lý tài sản thi hành án không có người tham gia đấu giá, trả trả, bán đấu giá không thành. Thứ tư, Luật thi hành án dân sự đã quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quy định này còn chưa sát với thực tiễn, nhất là đối với số án tồn trước 01/7/2009, trong đó có những việc mà các cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để tổ chức thi hành trong nhiều năm nhưng không có kết quả, dẫn đến tốn kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước và những khoản thu đối với người đã bị kết án về hành vi phạm tội trước đây, nhưng nay hành vi phạm tội này đã được miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã xây dựng Đề án về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có ý kiến cần đưa vấn đề này vào nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự để tạo điều kiện cho việc xét miễn, giảm thi hành án có căn cứ luật định. Thứ năm, việc xác định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ công tác thi hành án dân sự trên địa bàn còn chưa cụ thể. Để khắc phục những bất cập, hạn chế trên, bảo đảm thực hiện nghiêm quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời để thực hiện Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị liên quan đến quản lý công tác thi hành án theo hướng tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án nhân dân và Ủy ban nhân dân địa phương trong công tác thi hành án dân sự, việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự là rất cần thiết. 1.3 GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.3.1 Mục đích - Góp phần tạo chuyển biến cơ bản torng công tác THADS, khắc phục tình trạng tồn đọng kéo dài; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án; nâng cao kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật. - Bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại. - Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tăng cường vị trí, vai trò của cơ quan THADS, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động THADS. 13
  • 14. sở pháp lý cho việc từng bước thực hiện xã hội hóa công tác THADS. 1.3.2 Phạm vi điều chỉnh Luật THADS quy định những nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bàn án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại; hệt thống tổ chức THADS và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động THADS. 1.4 HỆ THỐNG TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN VÀ CHẤP HÀNH VIÊN 1.4.1 Hệ thống tổ chức thi hành án 1.4.1.1 Quy định chung Theo quy định tại Điều 13 của Luật THADS thì hệ thống tổ chức thi hành án dân sự bao gồm: - Cơ quan quản lý thi hành án dân sự: + Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; + Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. - Cơ quan thi hành án dân sự: + CQTHADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là CQTHADS cấp tinh); + CQTHADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là CQTHADS cấp huyện); - Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án cấp quân khu). Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của CQTHADS. Trong khoa học pháp lý cho đến nay mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của hoạt động thi hành án, nhưng quan điểm được thừa nhận tương đối rộng rãi hiện nay là hoạt động thi hành án là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp. Do đó, có thể hiểu CQTHADS là cơ quan hành chính - tư pháp có chức năng, thẩm quyền trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc những bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. Trong CQTHADS có các Chấp hành viên và các cán bộ 14
  • 15. thi hành án. Đứng đầu cơ quan thi hành án có Thủ trưởng cơ quan thi hành án. Cũng như quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 theo quy định của Luật THADS các CQTHADS gồm có CQTHADS địa phương và cơ quan thi hành án quân khu và tương đương. CQTHADS địa phương được thành lập trên cơ sở địa giới hành chính, số lượng các cơ quan này có thể thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi đơn vị hành chính tỉnh, huyện. CQTHADS địa phương được tổ chức theo hai cấp: - Thi hành án dân sự cấp tỉnh: CQTHADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Thi hành án dân sự cấp huyện: CQTHADS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cơ quan thỉ hành án quân khu và tương đương được hiểu là cơ quan thi hành án được tổ chức tại mỗi quân khu và tại quân chủng Hải quân có một cơ quan thi hành án tương đương với cơ quan thi hành án tại mỗi quân khu. Hiện nay cả nước có 9 cơ quan thi hành án cấp quân khu (Cơ quan thi hành án thuộc 7 quân khu và cơ quan thi hành án quân chủng Hải quân, cơ quan thi hành án quân khu Thủ đô). 1.4.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành dân sự Theo quy định tại các điều 14, 15, 16 Luật THADS thì CQTHADS có sự khác nhau tùy thuộc vào đó là cơ quan thi hành án cấp nào, trong quân đội hay ngoài quân đội, tuy nhiên nhìn chung có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp cao hơn; - Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật này; - Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật này; - Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của CQTHADS theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp trên; - Giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp (đối với CQTHADS ngoài quân đội), giúp Tư lệnh quân khu và tương đương (đối với CQTHADS cấp quân khu) thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của mình trong thi hành án dân sự. Luật THADS quy định cơ cấu, tổ chức CQTHADS theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện đã tạo được một số thuận lợi trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi hành án như sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương đối với cơ quan thi hành án thuộc địa phương mình. Tuy nhiên, việc thành lập CQTHADS địa phương theo địa giới hành chính - lãnh thổ giống như mọi cơ quan hành chính nhà 15
  • 16. chưa tính đến đặc thù của loại cơ quan hành chính - tư pháp cũng có điểm chưa hợp lý mà Luật THADS chưa được khắc phục. Thông thường, các tranh chấp dân sự thường xảy ra và tập trung cao độ ở những khu vực phát triển về dân cư và kinh tế, xã hội. Do đó, ở các thành phố lớn, số vụ việc phải thi hành án sẽ nhiều hơn so với khu vực vùng sâu, vùng xa. Trong khi đó, ở các khu vực vùng sâu, vùng xa vẫn phải thành lập cơ quan thi hành án với đầy đủ thành phần từ Thủ trưởng đến Chấp hành viên, cán bộ thi hành án, thủ kho, thủ quỹ..., kéo theo đó là sự đầu tư tốn kém về cơ sở vật chất. Hơn thế nữa, việc tổ chức CQTHADS theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện cũng dẫn đến hậu quả là có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cuờng độ lao động của Chấp hành viên ở các khu vực đô thị phát triển với Chấp hành viên ở các khu vực vùng sâu, vùng xa. Việc tổ chứcCQTHADS theo khu vực và có tính đến yêu cầu công việc đồng thời vẫn đảm bảo thuận tiện cho dân chua thể thực hiện đuợc theo Luật THADS. 1.4.2 Chấp hành viên 1.4.2.1 Khái niệm, trình tự thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm Chấp hành viên Theo quy định tại Điều 17 Luật THADS thì: “1. Chấp hành viên ỉà người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. 2. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. 3. Chỉnh phủ quy định trình tự, thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm Chấp hành viên”. Theo quy định tại Điều 17 Luật THADS như trên thì Chấp hành viên vẫn do Bộ truởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm nhung đã bãi bỏ quy định tại khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh THADS năm 2004 là: “Chấp hành viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ năm năm’’. Nhu vậy, Chấp hành viên đuợc bổ nhiệm không kỳ hạn trừ khi bị kỷ Luật hoặc vì lý do khác. Quy định này khác quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004, tuơng tự nhu quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993. Luật THADS lần đầu tiên đã quy định việc thi tuyển Chấp hành viên là thủ tục, điều kiện bắt buộc truớc khi bổ nhiệm. Để đuợc bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp thì nguời dự tuyển phải tham gia và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng đó. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn đuợc nguời có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác nhau phù hợp với yêu cầu của cải cách tu pháp, cải cách hành chính. Tuy nhiên, việc thi tuyển Chấp hành viên cũng có truờng hợp ngoại lệ đuợc quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật THADS, đó là để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội đã giao Chính phủ quy định những CQTHADS cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân Luật làm Chấp hành viên không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật THADS có hiệu lực thi 16
  • 17. quy định đặc thù của pháp luật THADS phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương. Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và thực tiễn công tác bổ nhiệm Chấp hành viên ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, quy định bổ nhiệm Chấp hành viên không theo nhiệm kỳ sẽ vừa kế thừa đựơc những ưu điểm, vừa khắc phục được về cơ bản những hạn chế của việc bổ nhiệm Chấp hành viên có kỳ hạn. Việc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của Chấp hành viên theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 với mục đích là nhằm giảm nhũng nhiễu, tiêu cực trong công tác thi hành án, đảm bảo tính phù hợp với tiêu chuẩn của chức danh tư pháp khác (chẳng hạn như Kiểm sát viên) và yêu cầu của việc chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Quy định này có ưu điểm nhắc nhở Chấp hành viên phải chú trọng việc rèn luyện, giữ gìn tư cách đạo đức và không ngừng học tập để cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nếu họ muốn được tái bổ nhiệm. Bởi vì Chấp hành viên sẽ không thể được tái bổ nhiệm nếu họ bị đánh giá là năng lực yếu, không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có vấn đề về tư cách đạo đức. Tuy nhiên, thực tế bốn năm (khoảng thời gian Pháp lệnh THADS năm 2004 có hiệu lực) áp dụng quy định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ đã gặp nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Mỗi lần bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ mới cũng kéo theo hàng loạt vấn đề khác như phải thành lập Hội đồng, phải họp xét rất tốn kém về thời gian, tiền bạc cho ngân sách nhà nước. Việc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ không đảm bảo sự độc lập của các Chấp hành viên trong quá trình thi hành án. Cần phải tạo cho Chấp hành viên một tâm lý ổn định để thi hành nhiệm vụ. Chấp hành viên cần được bổ nhiệm suốt đời và cần tạo niềm tin rằng sẽ không có một cá nhân hay tổ chức nào có thể lợi dụng việc bình xét, tái bổ nhiệm Chấp hành viên để can thiệp vào quá trình thi hành án. Hơn nữa, Chấp hành viên được bổ nhiệm suốt đời không đồng nghĩa với việc làm phát sinh tiêu cực trong công tác thi hành án bởi vì mỗi hoạt động của Chấp hành viên sẽ luôn có những cơ chế giám sát kèm theo. Nếu Chấp hành viên vi phạm pháp luật hay có biểu hiện nhũng nhiễu tiêu cực, có vấn đề về tư cách đạo đức thì họ sẽ bị bãi miễn và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Mặt khác, việc bỏ quy định về nhiệm kỳ Chấp hành viên là 5 năm nhằm đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của Chấp hành viên theo định hướng của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 49-NQ/TW "tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn". 1.4.2.2 Tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên - Tiêu chuẩn bổ nhiệm Theo quy định tại Điều 18 Luật THADS về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên được thiết kế thành 7 khoản. Theo đó, Chấp hành viên được bổ nhiệm được phân thành ba loại: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Những tiêu chuẩn chung để một người có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên là: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc; trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân Luật trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án; có sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ được giao; có thời gian làm công tác 17
  • 18. quy định. Thời gian này cụ thể là bao nhiêu năm thì tuỳ thuộc vào việc người đó được bổ nhiệm làm Chấp hành viên loại nào, Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp hay cao cấp. Để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, thì phải đáp ứng thêm 03 điều kiện sau: có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên; đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự; trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp. Như vậy, quy định các tiêu chuẩn để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp tương tự như tiêu chuẩn để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cơ quan thi hành án cấp huyện tuy nhiên thời gian làm công tác pháp luật ngắn hơn nhưng cụ thể và khắt khe hơn theo hướng phải được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và trúng tuyển kỳ thi Chấp hành viên sơ cấp trong khi quy định trước đây chỉ cần “có năng ỉực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án cấp huyện”. Tương tự, để một người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp ngoài các tiêu chuẩn chung, thì phải đáp ứng thêm 02 điều kiện sau: Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên; trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp. Người có đủ tiêu chuẩn quy định chung và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp: Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên; trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp. Như vậy, để có thể hoàn thành nhiệm vụ, Chấp hành viên phải là người nắm vững pháp luật, được trang bị nghiệp vụ thi hành án thể hiện qua trình độ cử nhân Luật và có chứng chỉ nghiệp vụ thi hành án. Đây cũng là những tiêu chuẩn căn bản về bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật THADS từ trước cho đến nay. Từ hai tiêu chuẩn căn bản này, năm công tác sẽ là yếu tố quyết định người đó trở thành Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp hay Chấp hành viên cao cấp. Đây là quy định mới so với pháp luật hiện hành. Hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về quy định mới này: Quan điểm thứ nhất cho rằng, quy định mới này không phù hợp vì năm công tác thể hiện kinh nghiệm của người làm việc, càng nhiều năm làm việc thì kinh nghiệm, sự hiểu biết càng sâu, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng hơn, đó là điều tất yếu. Nhưng trong lĩnh vực thi hành án cũng như nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác, yếu tố này chỉ quyết định đến mức lương, sự đánh giá về cống hiến, chứ không có ý nghĩa quyết định đến sự thay đổi vị trí trong nghề nghiệp. Bởi đặc điểm của việc thi hành án là việc thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án và quyết định của cơ quan có thẩm quyền khác. Tất cả các cơ quan thi hành án, các Chấp hành viên, dù ở cơ quan thi hành án nào, cấp huyện hay cấp tỉnh, đều phải thực hiện đúng nguyên tắc này. Mặt khác, trong thi hành án, không tồn tại những nguyên tắc như trong tố tụng xét xử, ví dụ: bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm có thể bị xem xét lại ở Toà án cấp phúc thẩm theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Tất cả các cơ quan thi hành án đều có nhiệm vụ thi hành án theo thẩm quyền, không có việc nếu cơ quan thi hành án này không xong thì chuyển cho cơ quan thi hành án khác. Điều này đòi hỏi các Chấp hành viên đều phải có trình độ mặt bằng chung giống nhau, cũng như các cơ quan thi hành án, không thể có cơ 18
  • 19. án cấp cao hơn hay cơ quan thi hành án cấp thấp hơn. Không có khái niệm cao, thấp, giỏi hơn, kém hơn trong thi hành án. Quan điểm thứ hai cho rằng, quy định của Luật THADS về phân cấp Chấp hành viên là phù hợp, tương tự như quy định chức danh Kiểm sát viên và xuất phát từ việc khắc phục thực tiễn các Chấp hành viên được điều chuyển từ cơ quan thi hành án này sang cơ quan thi hành án khác, nếu cùng cấp thì không gặp khó khăn nhiều, nhưng nếu từ cấp tỉnh xuống cấp huyện, hoặc ngay từ cấp huyện điều chuyển công tác lên cấp tỉnh cũng gặp rất nhiều trở ngại do sự khác nhau về mức lương, hệ số chức vụ, sự chênh lệch về thang, bảng lương của Chấp hành viên ở cơ quan thi hành án cấp huyện và thi hành án cấp tỉnh. Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp hay cao cấp có ý nghĩa ghi nhận quá trình cống hiến, năng lực công tác chứ không đồng nghĩa với cơ quan thi hành án cấp này cao hơn cấp kia. Để một người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên quân khu và tương đương thì ngoài các tiêu chuẩn chung như đã trình bày trên, thì sỹ quan quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện tương tự với tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên ngoài quân đội. Với quy định này, việc bổ nhiệm Chấp hành viên trong quân đội sẽ được thuận lợi hơn trước. Trước đây, sỹ quan quân đội tại ngũ phải có thời gian công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án cấp quân khu. Theo quy định của Luật THADS thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp khi thời gian công tác chưa đủ mười năm. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến CQTHADS có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn chung, đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp. - Miễn nhiệm Theo quy định tại Điều 19 Luật THADS về miễn nhiệm Chấp hành viên, thì: Chấp hành viên đương nhiên được miễn nhiệm trong trường hợp nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến cơ quan khác. Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Chấp hành viên trong các trường hợp sau đây: + Do hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ Chấp hành viên; + Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà không còn đủ tiêu chuẩn để làm Chấp hành viên. + Chính phủ quy định trình tự, thủ tục miễn nhiệm Chấp hành viên. 1.4.2.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên 19
  • 20. là người có vai trò quan trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động thi hành án. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của Chấp hành viên là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy Nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực thi hành án. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên là khả năng mà pháp luật quy định giới hạn cho phép Chấp hành viên được làm, không được làm và chịu trách nhiệm về những việc được làm hoặc không được làm đó. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín. Để tạo điều kiện cho Chấp hành viên hoàn thành nhiệm vụ được giao, Điều 20 Luật THADS đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Theo đó, Chấp hành viên có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Thứ nhất, kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ Chấp hành viên cần chủ động, tích cực tìm biện pháp để thi hành các vụ việc được phân công theo đúng pháp luật, không lo là hoặc tìm cách trì hoãn việc thi hành án; lấy giáo dục thuyết phục là chính để đưong sự tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình; lựa chọn phưong thức thi hành án ít tổn hại nhất đến các lợi ích của đưong sự và lợi ích chung của xã hội. Thứ hai, thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đưong sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên. Chấp hành viên khi tiến hành hoạt động thi hành án chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thi hành án. Không ai, không co quan nào được can thiệp, tác động để buộc Chấp hành viên làm trái pháp luật. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào tình huống cụ thể, Chấp hành viên có thể lựa chọn phưong án xử lý thích hợp để đảm bảo kết quả tốt nhất cho hoạt động thi hành án. Thứ ba, triệu tập đưong sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án. Để thực hiện nhiệm vụ này, trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên tống đạt quyết định thi hành án cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để triệu tập họ để thực hiện việc thi hành án. Thứ tư, xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của nguời phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đen thi hành án. Chấp hành viên, trong phạm vi thẩm quyền của mình, có thể trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án của nguời phải thi hành án hoặc thông qua các tổ chức, cá nhân 20
  • 21. minh. Các cơ quan nhà nuớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực luợng vũ trang nhân dân, các cá nhân có liên quan có trách nhiệm giúp đỡ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên theo quy định của pháp luật. Nguời đuợc thi hành án cũng có thể chứng minh điều kiện thi hành án của nguời phải thi hành án. Việc xác minh điều kiện thi hành án của nguời phải thi hành án giúp cho Chấp hành viên có thể có các quyết định chính xác, kịp thời để giải quyết các công việc đảm bảo cho hoạt động thi hành án có kết quả. Chẳng hạn, nếu qua xác minh, Chấp hành viên nhận thấy nguời phải thi hành án có đầy đủ điều kiện để thi hành án nhung lại không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên sẽ áp dụng biện pháp cuỡng chế cần thiết để thi hành án. Thứ năm, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cuỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cuỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án. Các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cuỡng chế thi hành án; đuợc quy định tại Chuơng IV Luật THADS, trong đó biện pháp có tính phổ biến nhất và thuờng đuợc các Chấp hành viên áp dụng trong khi tổ chức thi hành án là biện pháp cuỡng chế kê biên tài sản. Khi áp dụng biện pháp cuỡng chế, nguời phải thi hành án phải chịu chi phí cuỡng chế thi hành án, trừ truờng hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, các biện pháp cuỡng chế chỉ đuợc Chấp hành viên thực hiện khi nguời phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và việc cuỡng chế phải tuân thủ quy định của pháp luật. Về nguyên tắc thi hành án dân sự truớc hết là việc của hai bên: bên đuợc thi hành án và bên phải thi hành án (nghĩa là việc của dân). Nhà nuớc chỉ có các biện pháp can thiệp khi thật cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho nguời đuợc thi hành án, lập lại trật tự công bằng xã hội và trên hết là đảm bảo tính tôn nghiêm của bản án, đã tuyên nhân danh nhà nuớc. Do đó, các Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án dân sự truớc hết cần thuyết phục nguời phải thi hành án tự nguyện thi hành. Chỉ khi không thuyết phục đuợc thì mới phải áp dụng các biện pháp cuỡng chế và việc áp dụng phải thận trọng và theo đúng các trình tự, thủ tục đã đuợc pháp luật quy định. Mặt khác, khi nguời phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành nhung Chấp hành viên cũng không tiến hành kê biên hoặc chậm trễ trong việc kê biên để đuơng sự tẩu tán tài sản... dẫn đến không thi hành án đuợc thì trách nhiệm thuộc về Chấp hành viên. Thứ sáu, yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ nguời chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Đây là quy định mới về quyền của Chấp hành viên. Quy định này đảm bảo cho việc thi hành án tránh sự chống đối từ những nguời có liên quan. Thứ bảy, lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ Luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn này của Chấp hành viên kế thừa quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Thứ tám, quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. Đây là quy định mới của Luật THADS. 21
  • 22. sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ. Quy định này rất mở, đảm bảo cho Chấp hành viên thực hiện được nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, Chính phủ cần quy định cụ thể về điểm này để tránh việc sử dụng công cụ hỗ trợ một cách tùy tiện. Thứ mười, thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng CQTHADS. Những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên như trên như là giới hạn chuẩn để Chấp hành viên thực hiện công việc của mình. 1.4.2.4 Những điều không được làm Để thực hiện tốt nhiệm vụ thi hành án dân sự, Chấp hành viên ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về năng lực chuyên môn, thì còn phải đáp ứng được các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Xuất phát từ yêu cầu đề cao vai trò, phẩm chất đạo đức của người Chấp hành viên, ngoài việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, Điều 21 Luật THADS còn quy định rõ những việc mà các Chấp hành viên không được làm, gồm có những việc sau đây: - Những việc mà pháp luật quy định công chức không được làm; - Tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật; - Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án; - Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án; - Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người sau đây: + Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; + Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên; + Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì; - Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao; - Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án; - Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật. Việc đặt ra các quy định về những việc Chấp hành viên không được làm là nhằm để việc thi hành án được khách quan, vô tư, hạn chế tiêu cực trong công tác thi hành án dân sự. Qua đó cũng góp phần đề cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của Chấp 22
  • 23. hành viên trong khi tổ chức các hoạt động thi hành án phải thật vô tư, không bị ràng buộc, chi phối bởi các quan hệ ngoài công việc chung, cũng như sức ép từ cấp trên hay từ các cơ quan khác... 1.4.3 Những quy định khác của pháp luật về hệ thống thi hành án và Chấp hành viên Từ Điều 22 đến Điều 25 của Luật THADS quy định về một số vấn đề khác nhu quy định về Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS, về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS, biên chế, cơ sở vật chất, trang phục, phù hiệu.... Theo quy định tại Điều 22 Luật THADS thì Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS phải là Chấp hành viên. Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS do Bộ truởng Bộ Tu pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm; Thủ truởng, Phó Thủ truởng cơ quan thi hành án trong quân đội do Bộ truởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm, miễn nhiệm. Chính phủ quy định tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS và cơ quan thi hành án trong quân đội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ truởng, Phó Thủ truởng CQTHADS đuợc quy định tại Điều 23 Luật THADS nhu sau: Thủ truởng cơ quan thi hành án với cuơng vị là nguời đứng đầu cơ quan thi hành án có nhiệm vụ, quyền hạn: - Ra quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; - Quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của CQTHADS; - Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ chức thi hành án; - Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chua rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định đó để thi hành; - Kiến nghị nguời có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật; - Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nuớc có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nguời vi phạm; - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; - Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án; - Thủ truởng CQTHADS cấp tỉnh có quyền điều động, huớng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi hành án đối với Chấp hành viên, công chức CQTHADS cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn và những việc khác theo huớng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc BộTu pháp. Phó Thủ truởng CQTHADS thự c hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Thủ truởng CQTHADS và chịu trách nhiệm trong phạm vi công việc đuợc giao. 23
  • 24. đảm biên chế, kinh phí, trụ sở làm việc, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ thông tin và phuơng tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho CQTHADS (Điều 24 Luật THADS). Theo quy định tại Điều 25 Luật THADS về trang phục, phù hiệu, chế độ đối với công chức làm công tác thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên, Thẩm tra viên và cồng chức khác ỉàm công tác thi hành án dân sự được cấp trang phục, phù hiệu để sử dụng trong khi thi hành cồng vụ, được hưởng tiền ỉương, chế độ phụ cấp phù hợp với nghề nghiệp và chế độ ưu đãi khác theo quy định của Chỉnh phủ”. Việc cấp trang phục, phù hiệu, thẻ cho Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự là hết sức cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các công chức này thực hiện tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, tránh tình trạng mạo nhận là Chấp hành viên để xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, gây mất trật tự xã hội và niềm tin đối với Nhà nước. Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án thuộc các CQTHADS địa phưong, công chức của Cục Thi hành án dân sự thuộc BộTư pháp được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ để phục vụ thi hành nhiệm vụ. Các loại trang phục cấp cho công chức làm công tác thi hành án gồm có: quần áo thu đông; áo khoác ngoài mùa đông; quần áo xuân hè mặc ngoài; áo so mi dài tay; giày da; thắt lưng da; dép da; tất chân; caravat; áo mưa; mũ kêpi; mũ bảo hiểm thi hành án; cặp da đựng tài liệu. Việc cấp đồng phục, phù hiệu và thẻ cụ thể được thực hiện theo quy định của Chính phủ. 24
  • 25. THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1 QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1.1 Khái niệm Là trình tự thi hành án các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật thi hành án. 2.1.2 Ý nghĩa - Bảo đảm tuân thủ pháp luật trong thi hành án dân sự. - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 2.2 Chủ thể và thủ tục yêu cầu thi hành án 2.2.1 Chủ thể Gồm có: người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều 3 Luật THADS định nghĩa: - Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền và lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. - Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự. 2.2.2 Trình tự, thủ tục yêu cầu thi hành án - Cấp bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại. - Gởi và nhận đơn yêu cầu thi hành án. - Ra quyết định thi hành án. - Gởi quyết định và thông báo về thi hành án. - Xác minh điều kiện thi hành án. - Tự nguyện thi hành án. - Biện pháp bảo đảm thi hành án. - Cưỡng chế thi hành án. 25
  • 26. thi hành án và xác nhận kết quả thi hành án. 2.2.2.1 Cấp bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại Điểm mới trong quy định về hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án là khi ra bản án, quyết định, Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, hạn chế thấp nhất tình trạng nhận thức không rõ về quyền yêu cầu thi hành án dẫn đến tình trạng yêu cầu thi hành án không đúng nội dung quyền, nghĩa vụ theo bản án, quyết định hoặc yêu cầu thi hành án khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, vừa nâng cao trách nhiệm của Toà án và nghĩa vụ của đương sự, vừa tạo điều kiện cho đương sự nhận thức về quyền, nghĩa vụ và thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự. Mặt khác, Toà án đã ra bản án, quyết định phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành" ( Điều 27, Luật THADS 2014). Theo điều 28 Luật THADS 2014, đối với bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, Luật thi hành án dân sự quy định Toà án chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn cụ thể đối với từng trường hợp như sau: - Đối với bản án, quyết định, phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, thì Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. - Đối với bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc, thì Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định. - Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự ngay sau khi ra quyết định. - Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự, Toà án phải gửi kèm theo bản sao biên bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan. 26
  • 27. Luật THADS 2014, người khi nhận bản án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định. Sổ nhận bản án, quyết định phải ghi rõ số thứ tự; ngày, tháng, năm nhận bản án, quyết định; số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định và tên Toà án đã ra bản án, quyết định; họ, tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên quan. Việc giao, nhận trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên. Trong trường hợp nhận được bản án, quyết định và tài liệu có liên quan bằng đường bưu điện thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao biết. 2.2.2.2 Thời hiệu yêu cầu thi hành án Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 3 năm. Thực tiễn thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy quy định thời hiệu này là ngắn, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật thi hành án dân sự 2014 đã quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, theo đó: a) Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. (điều 30, Luật THADS 2014) Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn. b) Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. c) Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án. 2.2.2.3 Thủ tục gửi và nhận đơn yêu cầu thi hành án - Thủ tục gửi đơn yêu cầu thi hành án Theo điều 32, Luật THADS 2014, người yêu cầu thi hành án tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu bằng hình thức nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc gửi đơn qua bưu điện. Ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án được tính từ ngày người yêu cầu thi hành án nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Theo điều 31 Luật THADS 2014, đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu 27