Bài tập lớn đường lối cách mạng neu năm 2024

Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ta đã đắm mình qua hàng ngàn cuộc chiến tranh để bảo vệ vững chắc nền độc lập. Để có thắng lợi to lớn đó là nhờ tinh thần yêu nước bất khuất và sự tài tình, khôn khéo của các nhà lãnh đạo. Trong quan điểm của Mác- Lê Nin về quần chúng và vận động quần chúng thì quần chúng nhân dân chính là chủ thể sáng tạo nên lịch sử - động lực của cách mạng. Tuy nhiên là chủ thể lịch sử nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối đa sức mạnh và vai trò sáng tạo một khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính vì lẽ đó mà trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam ta: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy". Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó quần chúng bao gồm Đảng vô sản. Nếu ví con đường cách mạng như một chuyến tàu thì Đảng chính là “đầu con tàu” ấy,Đảng soi đường, chỉ lối cho khối đại đoàn kết toàn dân được giác ngộ và có tổ chức nhờ vậy mà chuyến tàu “cách mạng” mới đến được hy vọng, đến được tự do dân chủ một cách dễ dàng. Đảng Cộng Sản có trách nhiệm như “người cầm lái” người dẫn đường: Đảng hoạch định ra đường lối đúng đắn, đưa đường lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp và tổ chức, vận động nhân dân đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của cách mạng là rất quan trong. Là nhân tố quyết định nhất đảm bảo thắng lợi cách mạng. Một trong những cuộc cách mạng to lớn để cho thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng là cách mạng tháng Tám (1945). Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Sau đây em xin phân tích sâu hơn vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945.

và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện”. Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1- 9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, Đảng đã nhận đinh rằng: Nếu như chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến tranh lần này đẻ ra nhiều Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước,Đảng đã sáng suất quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Thông qua Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941) chủ chương này được thể hiện rõ hơn.

Quan trọng nhất Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Các hội nghị đã cụ thể những vấn đề cơ bản sau: thứ nhất , Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. .Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"... Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết không đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. Thứ hai, trong quan hệ dân tộc - quốc tế. Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện để cách mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần: muốn người giúp cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc này lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành công’’ Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hành chính sách ‘‘dân tộc tự quyết ’’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương một Mặt trận riêng trực tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước. Thứ ba, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Chủ trương xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc và

tay sai (thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt minh...) Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem sức ta mà giải phóng cho ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Thứ tư, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa”. Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 và các Hội nghị Trung ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 – 1945 nhất là Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ đại của cách mạng tháng 8 – 1945.

 Tổ chức, thực hiện đường lối cách mạng - Tổ chức xây dựng lực lượng chính trị.

Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Namính vì thế sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài ,ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước sau đó , người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Cao Bằng, quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng,khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị khẳng định rằng: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt trận không thể gọi như trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn hiện tạiởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới..ào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.

cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung ương 7 của Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

  • Nắm bắt chính xác thời cơ, dung cảm kiên quyết lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa dành chính quyền.

Một trong những yếu tố quan trọng khiến cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi vẻ vang là do sự nhận thức sáng suất và nắm bắt đúng thời cơ của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Tất cả sự chuẩn bị của Đảng từ những năm đầu là rất chu đáo, chỉ chờ cơ hội chín mùa là tiến hành khởi nghĩa. Đảng ta rất công phu, bền bỉ kiên trì trong việc chuẩn bị lực lượng cách mạng và đặc biệt chú ý đến sự biến đổi của tình hình thế giới. Năm 1942 Đảng nhận định phe đồng minh sẽ chiến thắng trong cuộc CTTG lần 2. Đó là điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính vì thế Đảng đã gấp rút tập hợp lực lượng, sẵn sàng lật đổ bọn thực dân để giành chính quyền.

Nhằm độc chiếm Đông Dương Nhật đã thẳng tay hất cẳng Pháp ra khỏi vòng lao chiến, khiến cho mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết (9-1944).Bên cạnh đó, phe phát xít cũng đã trở nên yếu thế hơn trên chiến trường thế giới. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9- 3-1945), Tổng Bí thư Trường Chinh ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, đề ra khẩu hiệu đấu tranh mới và dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8- 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Trung ương Đảng và

Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban ra Quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà. Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.

  • Kết quả, kết thúc quá trình đấu tranh giành chính quyền.

Như vậy nhờ vào sự chỉ đạo tài tình của Đảng mà ciỉ trong vòng 15 từ 14 đến 28 tháng Tám , cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, ngày 02/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay Nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm, Nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 Đảng và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đẩu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ. Thắng lợi to lớn này đã có tác động cổ vũ sâu sắc phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu

Bên cạnh kinh tế thì văn hóa- xã hội cũng có sự cải thiện mạnh. Việc tang trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết với phát triển văn hóa, xây dựng con người tiến bộ và cân bằng xã hội. Ngay từ từng bước phát triển mở đầu cho công cuộc đổi mới, bằng cách thay đổi cơ chế nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm, từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020. Ngoài ra quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, năng lực của các hệ thống y tế cũng được hoàn thiện dần dần,...

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vị thế của Việt Nam ta trên thế giới cũng ngày càng được nâng cao,...

  • Những hạn chế khó khăn thách thức hiện nay.

Những thành công đạt được trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta kể từ năm 1986 là rất đáng nể. Chúng ta có sự phát triển nhất định trên mọi ngành, mọi lĩnh vực. Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Á. Mặc dù đã đạt được những bước tiến ngoạn mục, bên cạnh đó chúng ta vẫn có những hạn chế, khó khăn nhất định. Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 có nêu ra một số hạn chê, khó khăn, thách thức sau: hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và

quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.

 Trách nhiệm của bản thân

Là con dân Việt Nam- người đang sống trong một thời kì độc lập tự do, em luôn tự hào vì có một Đảng lãnh đạo sáng suất, một Đảng đã giúp đất nước thoát ra khỏi sự nô lệ, đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người. Sự nghiệp cách mạng là một thời gian không lâu cũng không nhanh của Đảng nhưng 91năm lãnh đạo sự nghiệp ấy, công lao của Đảng là không thể phủ nhận được. Dẫu vậy, các thế lực phản động, thù địch vẫn không ngừng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ, hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh chống lại tư tưởng, luận điệu sai trái đó là rất quan trọng, thường xuyên. Vì như vậy không chỉ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ mà còn bảo vệ chính nhân dân nói rõ hơn là chính bản thân mình. Điển hình trong thời kì phức tạp của dịch bênh COVID- những lực lượng phản động đã tung những tin tức sai sự thật, nhằm lung lay lòng tin của nhân dân với Đảng. Hành động đó là xấu xa cần lên án và loại bỏ ngay. Thực chất những luận điệu sai lệch ấy không chỉ nhằm hạ thấp uy danh, uy tín của Lãnh tụ và Đảng ta mà qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng là từ chỗ làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với các lãnh tụ để dẫn đến nghi ngờ, dao động rồi mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Chính vì thế mà chúng ta nên rèn luyện cho mình bản lĩnh, và sự tỉnh táo trong việc đọc thông tin, không thể để cho bọn thù địch, phản động “dắt mũi”. Và gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đảng Cộng sản Việt nam tồn tại và hoạt động vì mục tiêu duy nhất đó chính là đôc lậ p dân tộ c, chủ nghĩa xã hộ i, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống,̣ quyền tự do và làm chủ của nhân dân. Trải qua hơn 90 năm dưới sự dẫn dắt, lãnh đạo của Đảng, Việt Nam ta từng bước từng bước thành công trong đấu tranh giành lại chủ quyền rồi đến thành công trong phát triển kinh tế- xã hội. Dẫu biết đất nước vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định nhưng chúng ta hãy tin một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh..ẽ chỉ đạo, định hướng đúng đắn khiến cho Việt Nam ta sẽ ngày càng phát triển tốt hơn. Hiện nay, nước ta vẫn đang trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, vì thế sự lãnh đạo của Đảng là hết sức quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hãy nên ra sức phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân

Chủ đề