Bài học kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đối với công cuộc xây dựng CNXH

Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam đã biến lời tiên đoán sáng suốt và điều mong ước thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sự thật: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn".

Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) cho rằng: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"2.

Trải qua 21 năm chiến đấu, Nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới có quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta đã bị đập tan.

Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi này, Nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1954 đã chứng minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ. Quân ngụy Sài Gòn - đội quân tay sai mạnh nhất được Mỹ dồn sức lực, tiền của nuôi dưỡng và bảo vệ bị tiêu diệt đã làm cho các đồng minh Mỹ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh bắt đầu mất lòng tin vào khả năng của Mỹ. Niềm tin về “tính bất khả chiến bại” của đế quốc Mỹ đã bị lung lay.

Thắng lợi của Nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên trường quốc tế làm phá sản "thần tượng Mỹ” và tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ - tên đế quốc hùng mạnh nhất và tên sen đầm quốc tế hung ác nhất.

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, đây là thất bại lớn nhất. Đế quốc Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và còn phải tiếp tục gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài. Vết thương nhức nhối mà đế quốc Mỹ gọi là "hội chứng Việt Nam" đã dằn vặt giai cấp thống trị và cả nhân dân Mỹ trong nhiều năm cho đến nay vẫn chưa lành. Chiến tranh Việt Nam làm cho nhân dân Mỹ hiểu thêm những bệnh hoạn và mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản.

Thời kỳ sau Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển sang chiến lược "diễn biến hòa bình" gây đủ mọi sức ép nhằm phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản quốc tế từ trong lòng các phong trào và các nước đó.

Tất cả những điều đó nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược mà cả loài người tiến bộ, những ai có lương tri đều thừa nhận, dù Nhà Trắng và Lầu Năm Góc có tìm trăm phương nghìn kế để xóa bỏ cũng uổng công, dù năm tháng đã trôi qua nhưng sự thật lịch sử vẫn là sự thật.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài học quý giá trong lịch sử giữ nước:

Một là, toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.

Hai là, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh.

Ba là, lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.

Bốn là, ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và trên thế giới.

Năm là, không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2011, t.15. tr.618.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, t.37, tr.471.

Theo Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2018, tr. 330.

Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Đó là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾNCHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

1. Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Đó là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm ấy được bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý kiến kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam, được hun đúc từ ngàn đời nay.

2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”. Đường lối đó được thể hiện trong một loạt chủ trương mang tính hệ thống, kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến lược với những vấn đề về sách lược và phương pháp, hình thành một giải pháp tối ưu đưa cách mạng và kháng chiến tiến lên một cách vững chắc, từ giai đoạn mở đầu đến giai đoạn kết thúc. Nó tạo nên sức chiến đấu to lớn của cả nước, của toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ sâu rộng và mạnh mẽ nhất của thế giới trong điều kiện quốc tế rất phức tạp, đảm bảo quân và dân ta đánh thắng từng bước, tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

3. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.

Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trong đó đòn tiến công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ...

4. Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là hình thức và phương thức xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng ở cả hai miền Nam, Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến trường...

5. Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu quyết liệt với không quân và hải quân Mỹ. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh, lãnh đạo toàn bộ cuộc cách mạng Việt Nam và điều hành chỉ huy chiến tranh trên cả hai miền Nam - Bắc.

Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay tại chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Các vùng giải phóng, căn cứ hậu phương tại chỗ có thế liên hoàn trên cả 3 vùng chiến lược, nối liền với hậu pưhơng lớn miền Bắc, cùng với căn cứ hậu phương của hai nước Lào, Campuchia dựa lưng vào nhau thành thế mạnh của chiến trường Đông Dương.

Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuyến vận tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý chí và nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

6. Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.

Đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

7. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.

Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.

8. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng, là thắng lợi của nhân tố con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển ở một tầm cao mới. Bản sắc, văn hóa con người Việt Nam được tạo thành từ tố chất mới hòa quyện dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ đại của một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang dân tộc, đưa dân tộc Việt nam lên ngang tầm của thời đại mới.

(Còn nữa)
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ

Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong Toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Tác giả

Thứ sáu, 31/12/2021 15:36 0 Bình luận
(Mặt trận) - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho Nhân dân. Song, thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm, quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đánh dấu thời khắc cả nước bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy, động viên các tầng lớp Nhân dân hăng hái thi đua, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, kiến quốc.

Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII

Giá trị bổ sung, phát triển lý luận qua các mối quan hệ lớn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Chung tay xây dựng khu dân cư thân thiện môi trường

Ông Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

Trên cơ sở nhận định, đánh giá đúng tình hình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, muốn bảo vệ được chính quyền cách mạng và chuẩn bị, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược, phải huy động sức mạnh của toàn dân - yếu tố quyết định thắng lợi trong tình hình cực kỳ khó khăn này. Để tập hợp, đoàn kết được lực lượng toàn dân, công việc đầu tiên và cấp bách là giải quyết những nhu cầu bức xúc của Nhân dân, đó cũng là những công việc cần giải quyết của chính quyền cách mạng. Thực hiện chủ trương đó, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 việc cấp bách cần làm ngay: (1) Phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất; (2) Mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ; (3) Tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của Nhân dân; (4) Mở ngay một phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại; (5) Bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò; (6) tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết1.

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, chính quyền cách mạng thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: Tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân nghèo, giảm tô, giảm thuế, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác... Đối với giai cấp công nhân, thực hiện chế độ lao động ngày 8 giờ và có quyền học tập, huấn luyện các nội dung về quân sự, chính trị do chính quyền cách mạng và các đoàn thể tổ chức... Với các chủ trương lãnh đạo đúng đắn, kiên quyết của Đảng và Chính phủ, lòng nhiệt tình cách mạng và ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn của toàn dân, nạn đói được đẩy lùi, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, đời sống vật chất của Nhân dân, nhất là nông dân dần được ổn định. Trên mặt trận chống ngoại xâm, cùng với chủ trương xây dựng quân đội thường trực, Đảng và Chính phủ đặt rất cao việc xây dựng các lực lượng bán vũ trang gồm dân quân ở nông thôn và tự vệ chiến đấu ở thành thị. Đặc biệt, cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6/1/1946 - ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Nhân dân ta được hưởng quyền dân chủ của mình, là đòn nặng nề đánh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của các thế lực đế quốc và phản động; là cuộc vận động chính trị rộng lớn và sâu sắc, có ý nghĩa chính trị to lớn biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân quyết tâm bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng. Cùng với đó, Đảng và Chính phủ ta chú trọng xây dựng, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, coi đó là công việc quan trọng, cấp bách trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Tháng 5/1946, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tổ chức, như: Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Đảng Xã hội Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần lượt được ra đời, mọi tầng lớp Nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp đều được tập trung trong các tổ chức của mình, đoàn kết xung quanh Mặt trận Việt Minh, Chính phủ cách mạng. Đây là cơ sở, tiền đề để Đảng ta tiếp tục động viên, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực, trí tuệ, sức lực của các tầng lớp, giai cấp và toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp để giữ vững chính quyền cách mạng, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một lần nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lại được phát huy cao độ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.

Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta luôn coi trọng, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh Nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:

Đảng và Nhà nước luôn quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, coi đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Năm 1986, trên cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đại hội VI của Đảng đã đề ra và thông qua đường lối đổi mới toàn diện đất nước; trong đó, Đảng ta chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn và bài học đầu tiên là: “Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”2, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng luôn khẳng định: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta”3.

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và công tác xây dựng Mặt trận, ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ/TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”. Tiếp đó, liên tục từ Đại hội VII (năm 1991) đến Đại hội IX (năm 2001), vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khẳng định trong Nghị quyết của Đảng, như một thành tố quan trọng, nguồn sức mạnh to lớn, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt năm 2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tại Hội nghị này, Đảng sử dụng thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ ở trong nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là một bước phát triển mới về tư duy đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và đến Đại hội lần thứ XI (năm 2011), vấn đề Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta xác định là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay, vấn đề Đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được Đảng khẳng định “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, các giai tầng xã hội, giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài

Để triển khai đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đại hội Đảng các khóa đã đề ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phù hợp với các đối tượng5. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về công tác dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, người Việt Nam ở nước ngoài; các chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta không chỉ khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, mà còn kết hợp chặt chẽ giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực, lấy phát huy nội lực là nhân tố quyết định, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của Nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để Nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của Nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Đảng, Nhà nước cần chủ động nắm bắt tình hình và đề ra những chủ trương, biện pháp sát thực nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Thực tiễn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc. Kinh tế phát triển nhanh, ổn định; đời sống văn hóa và vật chất của Nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh thường xuyên được tăng cường; uy tín quốc tế được nâng cao. Bên cạnh kết quả đạt được, đất nước đang đứng trước nhiều thách thức, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của Nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế này đang làm xói mòn lòng tin của Nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Điều đó, đòi hỏi Đảng phải chú trọng xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình để Nhân dân được phát huy đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có điều kiện phát triển tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân và cho đất nước; đấu tranh phản bác có hiệu quả âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.

Để tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho Nhân dân phát huy quyền làm chủ

Trước hết, đó là sự tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ động tạo điều kiện để các tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia xây dựng, phản biện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân. Đồng thời, xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Đảng, Nhà nước cần tăng cường bồi dưỡng sức dân, thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội

Trong đó, cần quan tâm đúng mức phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có đông đồng bào tôn giáo sinh sống và thực hiện tốt nhiệm vụ công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới. Chính quyền các cấp quan tâm chăm lo từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; vận động và giúp Nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng dân tộc, tôn giáo làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh

Toàn Đảng tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Cùng với việc xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cần đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, thực sự là công bộc của Nhân dân. Cần đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền; kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ của Nhân dân; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật để củng cố lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò nòng cốt

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;... Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.

Để phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Mặt trận Tổ quốc cần tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần thi đua lao động sáng tạo của Nhân dân và sự chung sức của cả cộng đồng tham gia phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội; tham gia phòng, chống dịch Covid-19; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững...

Bài học về sức mạnh đoàn kết dân tộc trong những năm tháng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất là trong những ngày mở đầu toàn quốc kháng chiến, đã và đang được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất định đất nước ta sẽ phát triển hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.

Đỗ Văn Chiến

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 4, tr.6-7.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.213.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2007, tập 51, tr.130.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tập 51, tr.158.

5. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 “Về công tác tôn giáo”; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 “Về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”…

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.172.

Tags

đại đoàn kết dân tộc Toàn quốc kháng chiến Chủ tịch Đỗ Văn Chiến

Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII

15/02/2022

Giá trị bổ sung, phát triển lý luận qua các mối quan hệ lớn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

14/02/2022

Chung tay xây dựng khu dân cư thân thiện môi trường

10/02/2022

Bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân là mục tiêu hàng đầu

10/02/2022

Bài học kinh nghiệm kháng chiến chống mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.2 KB, 5 trang )

Bài học kinh nghiệm kháng chiến chống Mỹ
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã rút ra nhiều bài học kinh
nghiệm hết sức quý báu:
-Giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
-Trước âm mưu xâm lược miền Nam và chia cắt đất nước của đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai,vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách độc lập và sáng tạo, Đảng ta vạch ra đường
lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hướngv vào mục tiêu chung là hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất nước nhà, tạo điều kiện để đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội . Với đường lối đó, Đảng đã động viên được đến mức cao nhất
lực lượng hùng hậu của nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp
sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh ba dòng thác cách mạng , liên tiếp đánh thắng các
chiến lược chiến tranh thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã quán triệt chiến lược tấn
công, giữ vững liên tục thế tấn công, thực hành liên tục chiến lược tiến công. Đồng thời căn cứ
vào so sánh lực lượng giữa ta và địch, Đảng ta biết kéo địch xuống thang từng bước, đánh
thắng địch từng bước, đánh đổ từng bộ phận, không ngừng củng cố trận địa cách mạng , tạo thế
và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
- Coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam, đi đôi với việc tổ chức
xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.
Lực lượng cách mạng đó là các đảng bộ miền Nam được tôi luyện thành cán bộ tham
mưu dày dặn trên tiền tuyến lớn: là khối liên minh công-nông được Đảng dày công xây đắp
trong suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ: là đội quân chính trị quần chúng và lực lượng
vũ trang nhân dân , hai lực lượng cơ bản hùng hậu trong chiến tranh cách mạng: là Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã động viên, tập hợp ngày càng rộng rãi, đông đảo các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt giai cấp , tôn giáo , dân tộc vào cuộc kháng chiến cứu nước, đồng thời
tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ ngày càng to lớn của nhân dân và Chính phủ nhiều nước
yêu hoà bình và công lý trên thế giới.
- Lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp.
Phương pháp cách mạng trong đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng ta là sử dụng bạo
lực cách mạng tổng hợp bao gồm: Lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng


vũ trang nhân dân , bắt đầu khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển
thành chiến tranh cách mạng , kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng , kết hợp nổi dậy với tiến công,


tiến công với nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị,
đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp ba thứ quân: bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của các binh đoàn chủ lực, kết hợp đánh lớn, đánh
vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ, nắm vững
phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo những thời cơ mở những cuộc tiến
công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh , tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy
hàng loạt, đè bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.
- Kế thừa tài đánh giặc đầy mưu lược của tổ tiên, đồng thời phát huy kinh nghiệm phong
phú của cuộc Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Dưới sự l•nh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã đánh giặc Mỹ bằng mọi phương tiện và vũ khí có trong tay, từ vũ khí thô
sơ đến vũ khí hiện đại, đánh giặc với khí thế cả nước lên đường, toàn dân ra trận. Đó là đường
lối chiến tranh nhân dân đã được phát triển đến một đỉnh cao mới. Tất cả các hình thức, phương
pháp đấu tranh trên đây là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành chiến
lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
-Xây dựng hậu phương kháng chiến , căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước.
Trong chỉ đạo cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược, Đảng ta đã xác định con đường đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là lâu dài, gian khổ, phải chuẩn bị căn
cứ địa cho cuộc đấu tranh cách mạng , chuẩn bị hậu phương cho cuộc chiến tranh giải phóng.
+Đảng ta đã có kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa hậu phương trong những năm đấu
tranh cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 và trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhưng trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược,
điều kiện trong nước và thế giới đã có nhiều điểm khác trước. Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn
giải phóng,miền Nam còn dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai. Hệ thống
xã hội chủ nghĩa đã hình thành và ngày càng lớn mạnh, phong trào độc lập dân tộc và hoà bình
thế giới phát triển sôi động. Đế quốc Mỹ đóng vai trò sen đầm quốc tế và trực tiếp xâm lược

nước ta.
+Miền Bắc giành được độc lập, tự do là thành quả của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài
của nhân dân cả nước. Miền Nam còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh, miền Bắc phải “vững
mạnh và tiến bộ tức là thiết thực chiếu cố miền Nam”, phải “là nền tảng, là gốc rễ của
lực
lượng đấu tranh của nhân dân ta”. Xây dựng miền Bắc vững mạnh không chỉ nhằm xây
dựng đời sống tự do hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc,mà chủ yếu nhằm xây dựng thực
lực cách mạng cho cả nước, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, tạo điều kiệ có thể chi viện lực lượng ngày càng lớn cho miền Nam, và cùng miền


Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc . Xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là
“xây dựng căn cứ địa cách mạng cho cả nước”. Đảng đã sớm xác định miền Bắc là nền tảng
cho lực lượng cách mạng cả nước: sớm nhận định hướng xây dựng miền Bắc theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Đó là quyết tâm đúng đắn, là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng căn cứ địa
cách mạng , xây dựng hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược; miền Bắc là hậu phương lớn, là căn cứ địa vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam, đồng
thời tại miền Nam cũng hình thành các căn cứ địa tại chỗ. Hậu phương miền Bắc được nối liền
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em rộng lớn. Đó là nguồn sức mạnh to lớn về vật chất và
tinh thần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
-Xây dựng liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương, thực hiện nhất quán chính
sách đoàn kết, liên mihh với Lào và Campuchia
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước và giữ vững độc lập, tự chủ của
ta, nhằm đạt được mục đích chiến thắng kẻ thù chung của nhân dân ba nước Đông Dương. Hơn
nữa đối với từng nước vẫn có hình thức và nội dung liên minh phù hợp.
-Thực hiện đoàn kết quốc tế:
Trên cơ sở giữ vững tinh thần độc lập tự chủ, suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Đảng chủ trương đoàn kết, tranh thủ tối đa các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế
giới, ủng hộ sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta. Chủ trương đó đã đem lại hiệu
quả trong thực tế góp phần tăng thêm thế và lực cho cách mạng Việt Nam; cô lập cao độ kẻ

thù, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
THAM KHẢO THÊM
Ngày 30/4/1975, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thống nhất Tổ quốc. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội trong thế kỷ XX, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo,
là một trang sử hào hùng và mốc son chói lọi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đảng ta đã
tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc lãnh đạo cách mạng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Đó là bài học kiên định, quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Là quyết
tâm lớn của Đảng cũng là quyết tâm của toàn quân, toàn dân của cả dân tộc Việt Nam. Quyết
tâm ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận
mệnh đất nước của người Việt Nam, được hun đúc từ ngàn đời nay. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm
nguy, dân tộc ta triệu người như một, sẵn sàng đứng lên chống giặc cứu nước.


Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ. Đại hội lần
thứ IV của Đảng đã khẳng định: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn
và sáng tạo của Đảng ta". Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến
lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ đó với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên XHCN…
Bài học về nghệ thuật chiến tranh nhân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được phát
triển lên một trình độ cao, sáng tạo với những nội dung và hình thức đấu tranh cực kỳ phong
phú. Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai lực
lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh
cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, trong đó,

đòn tiến công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt để làm chủ.
Đó là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận rất hiểm hóc, ngày càng hoàn chỉnh
và vững chắc. Thế trận đó được xây dựng bằng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân
dân trên ba vùng chiến lược (nông thôn, đồng bằng, rừng núi và đô thị), kết hợp chặt chẽ để
tiến công địch, tạo nên thế trận liên hoàn trên toàn miền Nam, nối liền với miền Bắc, cùng với
hai nước anh em Lào và Cam-pu-chia dựng lên thế trận liên hoàn giữa 3 nước.
Đó là nghệ thuật tiến công kiên quyết, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ
3 mặt trận: Đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao với hình thức phong phú đa dạng. Kết
hợp chiến đấu với sản xuất và không ngừng ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân của ta là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu địch
mạnh, lấy ít đánh nhiều, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn và kém hiện đại đánh thắng quân địch có
trang bị kỹ thuật dồi dào và hiện đại hơn. Nó biểu thị một tư duy quân sự rất sáng tạo, tiêu biểu
cho học thuyết chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bài học kinh nghiệm về tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc. Trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử
chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang.
Đường lối và nghệ thuật tổ chức của Đảng đã tạo nên lực lượng cả nước đánh giặc lớn nhất
trong lịch sử dân tộc ta. Chính lực lượng cả nước đánh giặc là cơ sở vững chắc của thế chiến
lược tiến công ngày càng phát triển vững mạnh và sắc bén của chiến tranh nhân dân, tạo nên
sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh thắng lực lượng và bộ máy chiến tranh đồ sộ và hiện đại của
Đế quốc Mỹ.
Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu
phương lớn, hậu phương tại chỗ. Đảng ta sớm xác định miền Bắc là nền tảng cho lực lượng
cách mạng cả nước, sớm định hướng xây dựng miền Bắc theo con đường XHCN. Xây dựng
hậu phương vững chắc, tạo điều kiện để có thể chi viện lực lượng ngày càng lớn cho miền Nam
và cùng miền Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia để cùng
nhau đánh thắng Đế quốc Mỹ xâm lược. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn

với sức mạnh dân tộc. Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh
của thời đại.
Những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Đảng ta đã có sự vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý báu đó, góp
phần đưa sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng, vị trí của Việt Nam ngày
càng được khẳng định trên trường quốc tế.



Video liên quan

Chủ đề